PHÊ BÌNH CUỐN TỪ ĐIỂN
VIỆT NGỮ PHỔ THÔNG
của hai tác giả BS Lê
Văn Thu và DS Nguyễn Hiền
Nguyễn Huệ
Chi
Cuốn sách gồm 1274 trang, khổ 16x24cm, bìa cứng, giấy đẹp,
tôi nhận được đã gần ba tháng(2) nhưng đến nay mới đọc
xong, dù chỉ là đọc lướt các vần từ C đến Y và đọc tương đối kỹ hai vần từ A
đến B. Ngay khi mới cầm nó trên tay tôi đã rất vui thích ở hình thức trang
nhã, dày dặn, cách đóng sách chắc chắn để dùng lâu và dùng nhiều không hỏng,
và cách trình bày đúng quy thức một bộ từ điển Việt ngữ, ngoại trừ một ít
sơ suất không đáng có và cũng không nhiều – như trùng lặp (2 mục từ ào
ào;2 mục từ bá láp; 2 mục từ bập
bùng và bập bừng); sắp xếp sai trật tự vần a, b, c (bé
cái miệng phải đặt trên bé miệng; trong hai chữ bá
láp một chữ đặt nhầm vào vần ba, chữ thả
giàn đặt nhầm vào vần xả); viết chữ sai (từ bóng
thiềm có chữ thiềm là con cóc viết thành thuyền);
đôi khi có mục từ được ghi chữ “như” ở một từ đồng nghĩa, nhưng mở ra tìm, lại
không thấy đâu cả (dứt dây động rừng: như bứt dây động rừng;
tr.200)… – Càng đọc vào tôi càng phát hiện ra những điều cần đã
được đáp ứng (chưa dám nói là đủ) ở một cuốn từ điển giải nghĩa tiếng
Việt mà hai tác giả từng cất công đeo đuổi suốt nhiều năm. Không phải nhà ngôn
ngữ học, nhưng để khỏi phụ lòng hai ông, dưới đây tôi xin nêu một vài ý kiến
ban đầu, hay dở đều xin nói thẳng, hai ông cứ xem là cảm tưởng của một người không
chuyên nói lên những gì mà sách làm khơi dậy sự “động não” của mình.
I.
Điều đầu tiên là sách có một Phàm lệ (bao
hàm cả phần hướng dẫn về cách sử dụng sách và lời
tri ân) sáng rõ, dễ hiểu và gọn gàng khiến ai đọc vào cũng hiểu ngay, không
phải lật đi lật lại nhiều lần khi dùng từ điển. Kinh nghiệm cho biết, sách tra
cứu càng phức tạp thì phàm lệ lại càng phải cố gắng đưa ra những quy tắc giản
tiện đến hết mức có thể. Phải nói ra điều này vì tôi vốn quen thuộc với bộ Từ
điển tiếng Việt của GS Hoàng Phê mà tôi coi là được biên soạn
nghiêm túc và rất ít sai sót (tính đến bản in lần thứ 9, 2003(3)),
nhưng mở đầu, ở phần giới thiệu Nội dung và cấu tạo của quyển từ điển (trong
đó có những quy ước dành cho người đọc dùng để tra cứu) lại đề cập hơi sâu nhiều
thuật ngữ chuyên môn khiến không nhớ hết được, đọc mấy rồi cũng quên,
thành ra mỗi lần tra cứu cứ phải đọc lại (chỉ với hai dấu mở và
đóng ngoặc kép mà phải tìm mãi mới ra đây là dùng cho các mục từ phiên âm
tên nước ngoài có gạch nối). Cho nên, xin nhắc lại, với một Phàm lệ gọn
và không có gì khó hiểu, sách của Lê Văn Thu và Nguyễn Hiền đã giúp bạn đọc tra
cứu các mục từ theo chỉ dẫn một cách dễ dàng. Mặt khác cũng nhờ đó, muốn kiểm
tra người biên soạn tuân thủ quy tắc mình đề ra đến mức nào, phần nào làm được
và phần nào chưa làm được hay có gì vướng mắc, cũng không đến nỗi quá khó khăn.
Khi dõi theo các vần từ đầu đến cuối sách mà không gặp một chỗ nào “gờn
gợn” về tâm lý bởi cách diễn đạt có gửi ngầm vào đấy một đôi chút thiên kiến
vùng miền, bất đồng về chính trị, trái khoáy về thể chế… dù là ở các mục từ có
phần nhạy cảm, như ấp chiến lược, ấp tân sinh, bần cố nông, bắt
rễ xâu chuỗi, du kích, dư luận viên, nhạc
đỏ, việt kiều (từ kép Việt kiều theo tôi
phải viết hoa chữ Việt vì đây là tiếng Việt), cho đến cả câu dẫn chứng: bộ óc
của đảng là bộ chính trị (ở mục từ bộ óc)… thú thật một
mối thiện cảm đã nảy ra trong tôi một cách tự nhiên. Thậm chí có mục từ lẽ ra
còn nên viết trung tính (neutre) hơn thì hai ông hình như đã hơi nghiêng về
phía “tả” trong trình bày, chẳng hạn mục từ bồi thẩm đoàn có mở
ngoặc chú thêm: tại các nước tư bản – tôi nghĩ nên thay
“các nước tư bản” bằng “các nước dân chủ phát triển” vì không phải nhờ vào
“tư bản” mà chỉ có một “nền dân chủ đích thực” với “tam quyền phân lập” phân
minh, mới dám lập ra “bồi thẩm đoàn” có thẩm quyền kết tội độc lập trong
ngành tư pháp. Vân vân. Hiện tượng nhất quán đáng mừng này trong toàn cuốn từ điển
chắc hẳn phải bắt nguồn từ nguyên tắc thứ nhất ghi ở Phàm lệ mà
hai tác giả đã nêu lên như một kỳ vọng: “Muốn duy trì sự trong sáng của
tiếng Việt, giúp giải phóng nó khỏi bóng tối của thành kiến chính trị và
văn hóa” (tr.i). Liền đó, các ông lại viết tiếp một câu không phải bổ
sung cho quy tắc mà là lược thuật một trải nghiệm nhằm dốc thêm bầu tâm sự: “Cũng
có từ điển được biên soạn bởi người có định kiến chính trị phe phái quá sâu đậm
nên rất nhiều từ đã được gán cho những nghĩa mà thật ra chúng không hề mang!”
(tr.i). Trước những lời tâm huyết như thế thử hỏi ai có thể dửng dưng vô cảm được.
Bởi vậy, không sợ mang tiếng thiên vị, tôi xin dùng kiểu nói thông dụng hiện
nay để khái quát điều thu hoạch đầu tiên đối với cuốn sách: mọi mục từ trong
sách đều được thu nạp và xử lý thông qua chỉ một thao tác mà người biên soạn
coi là nền tảng – khách quan, khoa học. Xử lý đến đâu là chuyện
sẽ bàn.
Cũng phải nói trong khi viết Phàm lệ, với
những lĩnh vực không thuộc phạm vi mình hiểu sâu, đôi khi hai tác giả có
dùng những chữ chưa xác đáng, nhưng đó là khuyết điểm không ảnh hưởng đến
phần chính ở sau. BS Trần Văn Tích đã dẫn ra chữ Lê Quý Đôn(4),
tôi xin dẫn thêm vài chữ khác: Cung oán ngâm khúc và Chinh phụ
ngâm khúc không phải là “truyện thơ” mà là “ngâm khúc” (tên thể loại cổ
thường nằm ở phần cuối tên tác phẩm); Phan Trần nên để là
“truyện thơ” hoặc “truyện nôm” mà không để là “truyện”, cho khỏi nhầm với
truyện văn xuôi (như Truyền kỳ mạn lục); Trinh thử và Thạch
Sanh Lý Thông cũng nên để là “truyện thơ” chứ không nên gọi là
“truyện tích”, vì truyện thơ nào của chúng ta cũng xuất phát từ một tích
mà diễn ra văn vần (và tên gọi Thạch Sanh Lý Thông thì nên gọi
thống nhất là Thạch Sanh như cách gọi đã có lâu đời, đừng căn
cứ vào một bản in dân gian nào đấy đổi tên đi khiến rơi vào tình trạng tên gọi
không phổ dụng).
II.
Điều đáng nói thứ hai là đứng về tầm vóc, cuốn từ điển lần
này đã bổ sung được nhiều mục từ so với không ít từ điển có trước. Hiện
tôi đang có trong tay hai cuốn Từ điển tiếng Việt (2003,
NXB Đà Nẵng) của Hoàng Phê [TĐHP] và Việt Nam tự điển (1970,
NXB Khai Trí)của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ [TĐLVĐ&LNT]. Xin thử kiểm đếm ít
nhiều từ ngữ bất kỳ của hai cuốn nói đây cùng với cuốn của hai
tác giả [TĐLVT&NH] để xem số lượng giữa chúng chênh lệch thế nào. Tạm chọn
ra 10 từ trong các vần từ A đến Y: ăn, chơi, giàu, kéo, làm, nghèo, nói, sử, trèo, xa và
đếm những chuỗi từ kép đi theo các mục từ ấy.
1. Về ăn, đếm được: TĐLVĐ&LNT
168 mục (ăn bốc đến ăn-banh) [chữ có gạch nối là của
chính tác giả TĐLVĐ&LNT] / TĐHP 90 mục (ăn bám đến ăn vận)
/ TĐLVT&NH 185 mục (ăn ảnh đến ăn ý).
2. Về chơi, đếm được: TĐLVĐ&LNT
31 mục (chơi ác đến chơi-vơi) / TĐHP 11 mục (chơi bời đến chơi
xỏ) / TĐLVT&NH 26 mục (chơi ác đến chơi xuân).
3. Về giàu, đếm được: TĐLVĐ&LNT
14 mục (giàu bự đến giàu-giàu) / TĐHP 5 mục (giàu có đến giàu
sụ) / TĐLVT&NH 10 mục (giàu có đến giàu tình cảm).
4. Về kéo, đếm được: TĐLVĐ&LNT
42 mục (kéo bèn đến kéo xển) / TĐHP 6 mục (kéo bè
kéo cánh đến kéo theo) / TĐLVT&NH 26 mục (kéo bè đến kéo
theo).
5. Về làm, đếm được: TĐLVĐ&LNT
306 mục (làm ăn đến làm xàm) / TĐHP 79 mục (làm ải đến làm
vườn) / TĐLVT&NH 206 mục (làm ăn đến làm xiếc).
6. Về nghèo, đếm được:
TĐLVĐ&LNT 12 mục (nghèo con đến nghèo xơ nghèo
xác) / TĐHP 9 mục (nghèo đói đến nghèo túng) /
TĐLVT&NH 19 mục (nghèo cho sạch, rách cho thơm đến nghèo
xơ nghèo xác).
7. Về nói, đếm được: TĐLVĐ&LNT
528 mục (nói ắt-chất đến nói xượt) / TĐHP 94 mục (nói
bóng đến nói xỏ) / TĐLVT&NH 446 mục (nói ấm á đến nói
ý).
8. Về sử, đếm được: TĐLVĐ&LNT
34 mục (sử chúng đến sử-quân-tử) / TĐHP 14 mục (sử
ca đến sử xanh) / TĐLVT&NH 29 mục (sử bộ đến sử
xanh).
9. Về trèo, đếm được: TĐLVĐ&LNT
4 mục (trèo đèo đến trèo xuống) / TĐHP 2 mục (trèo
đèo đến trèo trẹo) / TĐLVT&NH 6 mục (trèo cao
ngã đau đến trèo trẹo).
10. Về xa, đếm được: TĐLVĐ&LNT
66 mục (xa cách đến xa-xả) / TĐHP 39 mục (xa bô
chê đến xa xưa) / TĐLVT&NH 65 mục (xa-bô-chê đến xa
xưa).
Chỉ qua 10 từ chọn ngẫu nhiên, trong đó 9 là từ vựng tiếng
Việt cơ bản và 1 là từ Hán Việt (sử), ta cũng thấy Từ điển
Việt ngữ phổ thông của Lê Văn Thu và Nguyễn Hiền có số lượng
từ ngữ vượt trội Từ điển tiếng Việt của Hoàng
Phê. Còn so với Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ
thì ít hơn, nhưng ít hơn không nhiều lắm, và cá biệt không phải không có
“đảo nghịch”, như ở các từ ăn tỷ lệ 185/168, nghèo 19/12, trèo 6/4.
Hiện tượng hơn hay kém số lượng mục từ giữa ba bộ từ điển
như vừa thống kê bắt nguồn chủ yếu từ hai lý do: khác biệt nhau giữa nguyên
tắc lựa chọn mục từ và quan niệm thế nào là “mục từ” bao
gồm cả từ đơn từ kép của từng nhóm tác giả. Nhất thời chưa thể kết luận
quan niệm lý thuyết của nhóm nào đúng hơn vì còn phải soi vào lý thuyết hiện đại
về “từ” và “ngữ” của ngành ngôn ngữ học. Mà kiểm tra thực tế để xem nhóm tác giả
này tuân thủ lý thuyết nghiêm chỉnh đến đâu so với nhóm kia là điều phức tạp, bởi
không một nhóm nào nêu tường tận trong sách. Chỉ riêng nguyên tắc lựa chọn, đọc
phần Nội dung và cấu tạo của quyển từ điển in đầutừ điển
Hoàng Phê, thấy sách này đặt mục tiêu thu thập khá rộng rãi; có 5 đối tượng từ
ngữ khác nhau được nhắm đến: a. “từ ngữ thường dùng trên sách báo… và trong đời
sống hằng ngày, phổ biến trong cả nước từ sau thập kỷ 20 của thế kỷ này”; b. “từ
ngữ thường gặp trong các tác phẩm tiêu biểu”; c. “phương ngữ đã được dùng ít
nhiều phổ biến”; d. “từ ngữ khoa học – kỹ thuật thường gặp trong các tài liệu
phổ cập khoa học”; e. “thành ngữ thường dùng” (tr. XII). Về tiêu chuẩn định dạng
thì ngoài “những đơn vị rõ ràng là từ” sách còn chọn thêm “những tổ hợp cố định
thường dùng mà trong nhiều trường hợp khó xác định được là từ hay là ngữ, nhất
là khi nghĩa của tổ hợp không phải chỉ là sự tổ hợp nghĩa của các thành tố”
(tr. XII).
Dù sao, để đối chiếu làm ví dụ cụ thể một từ nói giữa
hai sách Hoàng Phê và Lê Văn Thu – Nguyễn Hiền, chúng tôi vẫn bớt lại các
phương ngữ, từ cổ và từ Hán Việt, là những phần rất dễ hai bên có cách xử lý
còn bất nhất. Kết quả, những cụm từ đa âm tiết lấy nói làm gốc
sau đây có mặt trong TĐLVT&NH mà không có mặt trong TĐHP lần in thứ
9: nói ấm ớ, nói ấp úng, nói ất giáp, nói ẩu, nói ba hoa, nói
ba láp, nói bay bướm, nói bặm trợn, nói bập bẹ, nói bậy nói bạ, nói bô bô, nói
bốc đồng, nói bỡn, nói bướng, nói cà rỡn (cà giỡn), nói càn,
nói cạnh nói khóe, nói cầm chừng, nói câu giờ, nói chày nói
cối, nói chặn, nói chen, nói cho ngay, nói chọc, nói chùng, nói dai, nói dại,
nói dóc, nói dối, nói dông dài, nói dỡn, nói đẩy đưa, nói đoạn,
nói đổng, nói đùa, nói đúng, nói gạt, nói gằn, nói gièm, nói giễu, nói
gióng một, nói hớ, nói huỵch toẹt, nói khao khao, nói khẽ, nói khích,
nói khó, nói khóe, nói không, nói khống, nói khơi khơi, nói khuếch nói
khoác, nói lải nhải, nói lảm nhảm, nói lẩm bẩm, nói lẫn, nói lấp lửng, nói lấy
được, nói lẫy, nói leo lẻo, nói léo nhéo, nói léo xéo, nói lép bép, nói lí
nhí, nói liến, nói liều, nói líu tíu, nói lòng vòng, nói lớn lối, nói lúng
búng, nói lưu loát, nói lý sự, nói mãi, nói mỉa, nói miệng, nói móc họng, nói một
đàng làm một nẻo, nói nặng nói nhẹ, nói ngọng, nói ngọng nói nghịu, nói ngược,
nói nhát gừng, nói nhỏ nhẻ, nói nhỏ nhẹ, nói như pháo nổ, nói như tát nước vào
mặt, nói như vẹt, nói phải tội, nói phỉnh, nói phiên phiến, nói oan, nói ỡm ờ,
nói qua, nói quá, nói quanh nói co, nói quấy, nói quấy nói quá, nói ra rả, nói
ra nói vào, nói rỉa, nói rổn rảng, nói rộng ra, nói sa sả, nói sai, nói sau
lưng, nói sẽ, nói sướng miệng, nói tách bạch, nói thao thao, nói thầm thì, nói
thật, nói thêm, nói thiệt, nói tía lia, nói to, nói trắng, nói trộm, nói trời
nói đất, nói trúng, nói trước quên sau, nói ú ớ, nói vanh vách, nói vặc, nói vậy
chớ không phải vậy, nói ví von, nói võ vẽ, nói vói, nói vòng vo, nói vơ, nói vu
vơ, nói vung, nói vuốt đuôi, nói xa xôi, nói xa nói gần, nói xàm, nói xạo, nói
xằng, nói xẵng, nói xấc, nói xấu, nói xen, nói xéo, nói xỏ, nói xóc, nói xóc
óc, nói xoen xoét.
146 đơn vị tất cả. Có thể rồi đây, một sự quy nạp chặt chẽ
nhất nội hàm thuật ngữ “từ kép” hoặc “tổ hợp ngữ cố định” bắt buộc sẽ phải loại
bớt đi một số (chẳng hạn các tổ hợp “nói đúng” / “nói sai” / “nói rộng ra” /
“nói một đàng làm một nẻo” / “nói vậy chớ không phải vậy” đem vào tra cứu là
không thỏa đáng vì tự thân chúng có biến đổi trong hành trình giao tiếp: chỉ cần
thay “nói” một cách ngẫu nhiên bằng các động từ khác: nhìn, thấy, đọc, nghĩ, xét, chọn, làm…
lập tức đã sản sinh nhiều tổ hợp mới tương đương, đồng nghĩa hoặc cận nghĩa –
“thấy đúng”, “đọc đúng”, “nghĩ đúng”, “chọn đúng”, “thấy sai”, “nghĩ sai” “làm
sai”, “nhìn rộng ra”, “xét rộng ra”, “nghĩ rộng ra”, “chọn rộng
ra”, “làm một đàng nói một nẻo”, “thấy một đàng làm một
nẻo”, “nghĩ một đàng làm một nẻo”, “ngó vậy chớ không phải vậy”, “biết vậy
chớ không phải vậy”, vân vân – Chẳng lẽ kết hợp nào cũng đều là từ kép cần đưa
vào từ điển cả?). Nhưng dẫu thế đi nữa thì số còn giữ lại được trong 146 đơn vị
đã liệt kê ở trên vẫn không ít chút nào. Phải thừa nhận hai tác giả đã có công
làm sống dậy một khối lượng đáng kể những từ ngữ vốn đang trong chiều hướng dần
dần bị lãng quên, nhằm đưa chúng trở lại góp mặt vào cách ăn nói đa dạng của
người Việt tứ xứ, giúp cho công cuộc giao lưu ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam
đang cư ngụ trên nhiều địa bàn khác nhau, cả trong nước và hải ngoại, thêm phần
phong phú năng động hơn. Đóng góp này của Từ điển Việt ngữ phổ thông 2023
là không hề nhỏ.
III.
Nói đến một cuốn từ điển ngôn ngữ không thể không nói đến
tiêu chí về chính tả. Chính tả là mặt thứ hai không tách rời khối lượng từ vựng
được trình bày trong một từ điển phổ thông. Trong tiếng Việt, sự lẫn lộn
phát âm thường gặp trước nay ở những khu vực dân cư Bắc, Trung, Nam mà
ta có thể quy kết vào mấy nhóm có tính chất tiêu biểu (tiêu biểu chứ không bao
quát hết). Miền Bắc, chủ yếu nhầm lẫn 4 nhóm phụ âm đầu: s – x / tr – ch / d – gi – r / l – n.
Miền Trung, có một nhóm phụ âm đầu nh – d hay gi /
và hai nhóm phụ âm cuối c – t / n – ng,
và còn nhầm lẫn các dấu hỏi – ngã / hỏi – nặng.
Miền Nam, nặng nhất là hai nhóm v – d / h – gu/o và
cũng có cả hai nhóm phụ âm cuối n – ng / c – t.
Phát âm theo giọng địa phương là điều không khó gặp ở nhiều
người, kể cả người có học, việc ấy thuộc quyền cá nhân, không có gì sai; nhưng
khi đã vượt qua bậc học phổ thông trung học thì ít người còn viết sai chính
tả (nhất là sai n / l là
không thể chấp nhận), ngoại trừ ba trường hợp đặc biệt: s – x / d – gi – r / ch – tr vẫn
tồn tại dai dẳng và không chỉ riêng miền Bắc mà trên khắp cả ba miền. Các nhà từ
điển học đôi khi cũng vướng phải ba cặp con chữ này. Nói không quá, không một
người Việt học thức nào tự tin đến mức dám chắc bản thân chưa từng một lần phải
ngập ngừng phân vân, kể cả lúng túng, trước một từ ngữ thuộc loại s hay x, d hay gi, tr hay ch(5).
Thế mà, điều đáng ngạc nhiên là Từ điển Việt ngữ phổ thông đã
gần như “bước qua” một cách suôn sẻ, có vấp váp chút ít cũng không đáng kể. Khẳng
định của chúng tôi khuôn trongphạm vi phần mục từ (chứ không
phải trong toàn bộ từ ngữ tiếng Việt được dùng trong cuốn từ điển mà chúng tôi
sẽ nói tiếp ở dưới)quan sát được qua theo dõi 6 vần S, X, D, R, CH, TR ứng
với ba trường hợp đặc biệt đã nêu (s hay x / d, r hay gi / ch hay tr).
Tổng cộng 6 vần gồm 274 trang, đếm được 12015 mục từ(6).
Hãy loại ra không tính những phương ngữ và từ cổ hiện chưa bắt gặp một lần trên
báo chí sách vở ngoài cuốn sách của hai ông,muốn biết viết đúng hay viết sai
không tìm ra “tiêu bản” để so sánh(7). Số mục từ thực
sự không đúng chính tả trong 6 vần chỉ đếm trên đầu ngón tay: “chần dần”, “rấn
bước”, “rấn sức” “ròm rõ”/ “ròm rõi”, “sà lim”, “sì mũi”, “sọc sạch”, “sơ múi”,
“đánh bỏ sừ”, “sái thuốc phiện” (viết đúng là chần vần, dấn
bước, dấn thân, dấn sức, dòm dỏ/dòm dõi, xà lim,
xì mũi, xọc xạch, xơ múi, đánh bỏ xừ, xái thuốc phiện). Đúng 10
từ tất cả.
Cũng không cần thiết trưng dẫn hết thảy số mục từ các
ông đã viết đúng. Chỉ nêu lên một vài bằng cứ, đáng đề cập vì tìm thấy ngay ví
dụ đối chứng trên sách vở báo chí hiện thời, không kể trong nước hay ngoài nước.
Tất nhiên “tìm thấy ngay” không có nghĩa là tìm được nhiều. Trái lại, rất ít.
Tuyệt đại đa số đều đã viết như hai ông. Số ít ỏi tìm thấy này chỉ chứng tỏ một
vài “cái xương hóc” trong chính tả tiếng Việt vẫn đang còn rơi rớt, hoặc ghim
vào tiềm thức quá sâu, muốn “gỡ” ra, có lẽ nên bàn giải ngọn ngành để cùng nhau
đồng thuận chỉnh sửa.
– Hai ông viết dòng (dòng chảy, dòng lệ,
dòng giống, dòng dõi – tr.190), trong khi thời Tự lực văn đoàn,
Thạch Lam còn viết Theo giòng, Tú Mỡ viết Giòng nước
ngược, đến Nhất Linh năm 1961 vẫn viết Giòng sông
Thanh Thủy;còn hiện tại trang Người Việt (báo mạng, USA)một
đôi khi vẫn viết: “có một giòng sông” (bài đăng
30.8.2018); hay: “Giòngsông Sacramento” (bài đăng 28.3.2024).
– Hai ông chọn cả hai chữ chia sẻvàchiaxẻ,
áp dụng với từng văn cảnh khác nhau (“chia sẻ nỗi buồn với ai vì mất
mát người thân” – tr.112 / “để chia xẻ quyền lợi bọn chúng đã
toa rập với nhau” – tr.113), trong khi trên tạp chí Văn học mới (báo
giấy, USA, phát hành ở nhiều nước) số 27, tháng 10.2023, hình như đang viết gộp
cả vào một chữ “chia xẻ” mà không còn thấy “chia sẻ”: “nhiều người cũng chia xẻ quan
điểm” (tr.98); “để chia xẻ với người đọc khắp nơi”
(tr.102); “có sự sẵn lòng chia xẻ để lan tỏa những
giá trị nhân văn” (tr.107); “với tấc lòng bình yên, chia xẻ”
(tr.109)…
– Hai ông viết xanh rờn (tr.1231), trong
khi trang Thi viện (VN) không phải chỉ một lần viết “xanh dờn”:
“Nhìn vào thấy bờ cỏ màu lục xanh dờn” (Bài Vân
Đồn); “Hồ soi bóng liễu nước xanh xanh dờn”
(Bài Đề Tây Đô thành, bản dịch thứ 4); “Ngấn rêu đượm nước nở xanh dờn”
(Bài Sơn thượng, bản dịch thứ 4); “Đến tận cùng núi xanh dờn”
(Bài Hoàng Mai đạo trung, bản dịch thứ 3)…
– Hai ông viết vô hình trung(tr.1208),
trong khi cũng trên tạp chí Văn học mới đã dẫn, bắt gặp một chữ
“vô hình chung”: “vô hình chung trở thành một ngọn
nến sáng” (tr.108); và theo dõi trên nhiều báo mạng thì tìm được một chữ “vô
hình chung” thứ hai ở trang VOA tiếng Việt: “Trung Quốc vô
hình chung trở thành tâm điểm bị chú ý trong cuộc tranh luận
giữa hai ứng cử viên tổng thống Mỹ” (bài đăng 28.9.2016); cũng vậy, một chữ
“vô hình chung” thứ ba tìm được trên BBC tiếng Việt (Anh quốc):
“vô hình chung lại dễ khuyến khích thêm…” (bài đăng
19.5.2020).
– Hai ông viết xoay xở(tr.1250),trong khi
trang Doanh nhân Sài Gòn (báo mạng, VN)vẫn viết: “doanh nghiệp
tìm cách xoay sở” (Hàng tồn kho, doanh nghiệp tìm
cách xoay sở; 26.10.2022); trang VOV (VN) cũng thế: “xoay sở giữa
khó khăn” (Xoay sở giữa khó khăn, Hưng Thịnh, Novaland mong được kéo dài thời
gian vay vốn; 13.11.2023).
– Hai ông viết xôi kinh (xôi kinh nấu sử –
tr.1254), tức hiểu “xôi” là động từ,trong khi hiện tại trang Soha (VN)
mục “Tra từ” vẫn chỉ dẫn cho độc giả tra cứuthành ngữ “sôi kinh
nấu sử” (
và trang Hoc24OLM (VN)vẫn dạy cho học
sinh lớp 11: “Đặt câu với thành ngữ sau: a) Nấu sử sôi kinh…”
– Hai ông viết coi sóc (tr.139); sắp
xếp (tr.847); sâu xa (tr.852); trái
xoan (tr.1072); xiêu lòng (tr.1247); xói
mòn (tr.1251), trong khi tạp chí Văn học mới (đã dẫn)
cũng những từ này đều viết đảo s và x: “có trả
lương để coi xóc quét dọn” (tr.200);
“cùng xắp xếp xong hết mọi chuyện”
(tr.199); “mình xắp xếp đồ đạc rồi mai đi sớm”
(tr.199); “nằm không xâu lắm trong một con hẻm nhỏ”
(tr.200); “khuôn mặt trái soan” (tr.184); “mãi rồi
cũng siêu lòng” (tr.166); “sói mòn dần
tình yêu” (tr.176) [trở lên, các chữ trong ví dụ do chúng tôi in nghiêng hoặc
tô đậm].
V.v. và v.v.
Xin được nói một câu ngoài đề: đọc báo chí tiếng Việt hải
ngoại hiện nay, cả báo mạng và báo giấy, ta thường bắt gặp hai từ “diễn binh”
và “diễn hành”, chỉ những cuộc tuần hành của quân lính, của đám đông quần
chúng. Hai từ này gần như không có trên báo chí tiếng Việt từ xưa đến giờ (để
kiểm tra xem trước ngày 30-4-1975 “diễn hành” và “diễn binh” đã có mặt trong lời
ăn tiếng nói của người miền Nam hay chưa, không thật tin vào trí nhớ của mình,
tôi đã phải tra lại Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc
Trụ in năm 1970. Thì đây, khác với nhiều người hiện vẫn lầm tưởng, ở Quyển thượng
sách trên, trang 371, mục diễn, chỉ có một từ “diễn hóa” còn
“diễn hành” hay “diễn binh” đều tuyệt nhiên vắng bóng; trái lại ở
trang 373, mục diễu lại có “diễu binh”, nhưng “diễu
hành” thì không có – tất nhiên không có không phải vì từ ấy chưa từng
được dùng trên báo chí sách vở của miền Nam). Khi tôi hỏi một vài bạn quen đang
sống ờ California thì được trả lời: viết “diễn hành” mới đúng luật kết cấu Hán
+ Hán; nếu viết “diễu hành” sẽ rơi vào kết cấu Việt + Hán, là kiểu kết cấu rất
ít gặp trong quá trình hình thành tiếng Việt, nên “diễu hành” là viết sai. Tôi
hơi băn khoăn, bèn đem hai chữ Hán “diễn演” và “hành行” ghép lại, rồi tra thử
trên trang mạng baidu.com (Trung Quốc) thì có hai chữ “diễn hành 演行” thật,
nhưng về nghĩa, mạng baidu.com cấp cho ta một nghĩa không có gì gần gũi với tuần
hành cả: 演行的解释:
犹实行
/ diễn hành do thực hành (“diễn hành” cũng như “thực
hành”). Vậy có thể quả quyết, “diễn hành” không vay mượn ở đâu, chỉ là cách nói
trại từ diễu hành của những ai đó, thời gian phổ biến chưa
lâu, phạm vi lưu hành cũng còn rất giới hạn(8). Mở Từ
điển Việt ngữ phổ thông của hai tác giả ra, không thấy “diễn hành”,
trái lại từ diễu hành nằm ở trang 187. Rất tiếc, bên cạnh diễu
hành viết đúng, từ điển của hai ông lại có cả “diễn binh” cùng hiện diện
song song với diễu binh (được thích nghĩa là “sự phô trương lực
lượng các quân binh chủng nhân một dịp lễ lớn”). Như trên, “diễn binh” cũng thuộc
loại nói trại diễu binh và chưa mấy thông dụng trong tiếng Việt
hiện hành (Hán ngữ hiện đại cũng có từ diễn binh 演兵 nhưng
hoàn toàn không với nghĩa phô trương sức mạnh quân đội; baidu.com giải
thích “diễn binh” là diễn tập hoặc luyện binh, và ghi chú thêm: từ mới (演兵:演习;练兵–新词语 / Diễn
binh: diễn tập, luyện binh – tân từ ngữ)(9).
Hẳn có người hỏi: xác quyết chữ này đúng chữ nọ sai, thế dựa
vào đâu mà nói sai hay đúng? Câu hỏi không kém nan giải. Thực tình không một chỗ
dựa duy nhất nào có được đáp số đúng trong mọi tình huống. Ở trên đã nhắc Từ
điển tiếng Việt của Hoàng Phê, đó là công trình tập thể của Viện Ngôn
ngữ học do GS Hoàng Phê chủ biên, khởi công làm phiếu điều tra tiếng Việt trên
báo chí sách vở ngay từ ngày Viện mới là một tổ trong Viện Văn học (1959)(10).
Khi thu thập được 3 triệu 30 nghìn phiếu, một đội ngũ chuyên môn bèn bắt tay
biên soạn, tính đến 2003 đã in đến 9 lần, lần in nào cũng có chỉnh sửa, là công
cụ mà nhiều người Việt hiện đang tra cứu hàng ngày. Nhưng, cuốn từ điển ấy cũng
chưa có đủ mục từ, và không phải là cẩm nang giải quyết hết mọi chuyện rắc rối
của tiếng Việt. BS Trần Văn Tích, một học giả từng trải, có nhiều kinh nghiệm
tiếp xúc ngôn ngữ ở hải ngoại, người đã hết lòng tìm đủ luận chứng ở 17 cuốn
sách để bênh vực nhà nghiên cứu Thụy Khuê khi bà đem in một công trình bị một
nhà xuất bản hải ngoại bắt thay hai chữ “sử dụng” bằng “xử dụng”; trong bài viết
nhắc ở mục I, ông đã dành gần 3 trang(11) kể
lại những tình thế khó xử mình phải thuyết phục lý trí bằng so sánh nghiền ngẫm
nhiều từ điển khác nhau, cho chúng “cọ xát” nghĩa trong thực tế sử dụng, cuối
cùng chọn được từ ngữ thích đáng mà không phải nhượng bộ thói quen, định kiến,
cũng không đánh mất sự tự chủ. Tôi xin mượn kinh nghiệm của ông để phần nào nói
thay cho mình. Trong giao tiếp ngôn ngữ, chỉ có được chân lý hợp thành từ nhiều
nguồn: sách vở (từ điển), thực tiễn, và sự trải nghiệm. Và cũng không thể dùng
mệnh lệnh, phải tự mình sàng lọc, cuối cùng thuyết phục mình và người hướng tới
cái đúng.
Dựa trên cơ sở của nguyên tắc làm việc vừa rút ra, trở lại với Từ
điển Việt ngữ phổ thông của Lê Văn Thu và Nguyễn Hiền. Khi kết luận
các ông đạt một tỷ lệ mục từ viết đúng chính tả đầy ấn tượng,
như con số đã thống kê ở ba cặp con chữ dễ sai chính tả nhất (s – x / d – gi – r / ch – tr),
tôi đã cố gắng soi nhìn cuốn sách trong một tiến trình dài của ngành từ điển tiếng
Việt nước ta. Công sức to lớn của hai ông, vốn là hai nhà khoa học tự nhiên, là
đã không ngừng tiếp cận nhằm thâu lượm lời ăn tiếng nói của nhiều nhóm người Việt
đa dạng trong thời gian trên dưới nửa thế kỷ. Nhưng có lẽ còn quan trọng hơn,
nhờ tinh thần bỏ qua thiên kiến như viết ở lời đầu sách, các ông không câu nệ
tiếp thu thành quả từ nhiều nhà từ điển học đi trước, biến chúng thành điểm mạnh
của mình. Chỉ với hai cá nhân đơn độc thì dù có thêm “hiền thê” giúp sức (ghi
trong lời Tri ân), vẫn không dễ gì vượt thoát khâu hết sức khó khăn
là chuẩn định các mục từ cho đúng chính tả trong quá trình làm
một cuốn từ điển ngôn ngữ ròng rã 12 năm, mà nhiều người đã phải gọi đó là những
“cái bẫy”, hơi loạng quạng là sập. Ngay như trong tập thể soạn giả bộ Từ
điển tiếng Việt Hoàng Phê có một thành viên tương đối trẻ; ở phần việc
đóng góp cho công trình chung, nhờ áp lực của “cái đúng” từ Chủ biên và tập thể
anh ta thực hiện thuận buồm xuôi gió. Đến lúc tự mình đứng ra soạn riêng một cuốn
từ điển chính tả thì sách anh làm gặp đâu sai đấy, có đến 168 mục từ sai, đến mức
sách vừa in ra đã bị thu hồi(12).
IV.
Trên phương diện cung cấp mục từ, còn một đóng góp nữa của Từ
điển Việt ngữ phổ thông cũng rất nên nghĩ: các ông đã bảo lưu được nhiều
từ cổ và phương ngữ của người Việt, không để chúng mai một đi. Ở bất kỳ vần nào
trong cuốn sách của BS Lê Văn Thu và DS Nguyễn Hiền, ta cũng có thể nhặt được
những mục từ mình chưa từng quen thuộc. Chỉ đọc từ A đến hết B đã
tìm thấy: a thần phù (a vào, ùa vào, xông vào khi có đông người
cùng hành động); ạch đụi (không suôn sẻ, không may mắn); áo
quạ (áo dành cho đàn ông, tay dài, tà chỉ dài đến đầu gối); ăn
chõm (tham lam lấy cả phần người khác); ba dẻm (tầm
phào); ba đá (tính tình ngang ngược); ba đàng ba sá (du
côn); ba rọi (1. miếng thịt lợn có cả mỡ và da; 2. tình trạng
không ra gì do pha trộn lố lăng nhiều thứ với nhau); ba vá (đầu
cạo trọc chừa ba chòm tóc); bá cháy (hết sẩy, tuyệt vời); bành
ki (chỉ vật có kích thước lớn); bách xách (phiền phức); bảy
rảy (bứt rứt); bắc kế (buộc ngựa hay bò vào xe cho
chúng kéo); bái xái (xiểng liểng); bài hải (tiếng
kêu hay tiếng la rất to); bại xụi (tê liệt không cử động được); ban
sơ (lúc mới đầu); bán mạng ([chạy] thật nhanh không kể
gì nguy hiểm); bần quân(13) (màu hơi nâu, chỉ
nước da người phụ nữ khỏe về tình dục); bạng nhạng ([thịt] bạc
nhạc); bẫng (bước hụt); bao bụng ([ăn] kỳ
no); bào bọt (cảm giác xót đau trong bao tử); bập dừa (phao
tập bơi bằng bẹ dừa nước sau khi đã tước vỏ); bẹ mèo (bẹ cau
còn non); ben (bì kịp); bẻo (vạt chéo); bê (trôi
giạt); bệu rệch (lôi thôi lếch thếch); bía (món
ăn có lạp xường); bín (thắt bím); bủn (nát vụn); bùn
lu (bùn có lẫn cỏ và rác); bo bíu (túng thiếu
quá); bò khướu (con bò có lông đen); bồ bồ (xoay
mòng mòng); bốc hốt (làm hỗn với phụ nữ); bốc xẹt (hời
hợt, nông nổi, hay nói); bơn (bãi cát bồi); bớn (yếu
ớt, ẻo lả); bợn nhợn (nhộn nhạo trong bụng); bọp (đã
bị méo mó, mất hình dáng cũ); bườm (tiếng hô của bọn ăn cướp
ra hiệu rút lui sau khi hành sự); v.v.
Ta cũng gặp trong cuốn từ điển không ít mục từ Hán Việt và
thành ngữ Hán Việt, thuộc loại được Việt hóa và dùng lẫn với tiếng Việt tùy từng
vùng đất có tiếp xúc Hán học xưa kia (có từ phổ biến rộng rãi khắp Nam Bắc, có
từ chỉ một vùng), nhưng hiện đã ít dùng và trở lại tình trạng mờ nghĩa cho đến
mất nghĩa nhìn trên bình diện cả nước. Nào ác đảng, ác ma, ác
phạm, ác thần, ai tử (tiếng tự xưng trên giấy
báo tang của người con trai cha mẹ vừa chết), ám tiễn, an
bang, án quyết, án tích, án thế (bản
án thay thế giấy khai sinh), ảo tượng, âm hạch (hột
le, vật nhỏ nhạy cảm của bộ phận sinh dục nữ), âm tần (tần số
âm thanh), âm thoa (vật bằng kim loại để định chuẩn âm
thanh), ấm tử, ân phụ, bách linh, bạch
chủng, bạch thủ, bạch viên, bại tục, bào
huynh, bảo chủ (người đứng chịu trách nhiệm); bảo
quyến, bạo chính, bát độ, bát tiết, bát
tuần, bạt tụy, bắc giao (lễ tế Giao), bắc
kế (buộc ngựa vào xe), bẩm thụ, bất đẳng (bất
bình đẳng), bất cố lai vãng, bất học vô thuật, bất
ly tri thù [不離錙銖] (keo kiệt không chịu mất tí gì), bất phân mộ
dạ, bất thành khí, bỉ nhân, biểu đệ, biểu
điệt, bồi thực, bôn bá [奔播] (lật
đật, vội vàng, gian nan), khanh sát (chôn sống), nho
tôn [儒尊]
(người giỏi được tôn xưng trong hàng ngũ nhà nho), nột nho [呐儒?]
(học trò dốt), phong chúc, phôi châu [肧珠] (phần
tử nhỏ của hoa sẽ kết thành trái), phôi dựng [肧孕] (có
thai), phôi nang [肧囊], phôi nhũ [肧乳] (chất
sữa hay lớp cùi mềm của trái cây có vỏ cứng), phù dân [浮民]
(người lông bông); quả nhân (người phụ nữ), quang
manh [光盲]
(mù lòa); quang trạch (sáng lóng lánh); quật hạ [?]
(chịu luồn cúi dưới người khác), quật [quất] hồng [橘紅] (vỏ quả quýt [?]), quật huyệt (hang
thú ở), quật kỳ (khác thường, vượt trội), quật [quất] lạc [橘絡] (tép quả quýt), quật
tàng [掘藏]
(khai quật), quật tỉnh (đào giếng), quật [quất] tử [橘子] (quả quýt);…
Đọc lại bản hướng dẫn đầu sách thì việc thu góp phương ngữ
cũng như từ ngữ Hán Việt và cả từ Việt cổ cũng chính là mục tiêu quan trọng đứng
hàng thứ hai của hai tác giả: “nhóm biên soạn cố gắng giữ lại các từ cổ (thịnh
hành ngày xưa nhưng ít dùng bây giờ) và thêm các phương ngữ mà chúng tôi lượm lặt
được (mặc dù không đầy đủ)” (tr.iv). Thêm một mục tiêu như thế cũng là rất
tốt cho người cần tra cứu sách vở cũ, và người có công việc cần đi lại nhiều về
các địa phương. Tôi phải ghi chú chữ Hán vào một đôi từ Hán Việt mình dẫn lại
vì không phải chữ nào cũng phiên âm đúng và hiểu nghĩa đúng, giả định không phải
người soạn nhầm mà sai lạc từ con đường truyền miệng trong dân gian. Lại cũng
không phải từ nào cũng có trong sách vở chữ Hán của Trung Quốc, như thành ngữ
“bất ly tri thù” (ngay sách Tục ngữ, cổ ngữ gia ngôn(14) của
Huình Tịnh Của và phần phụ lục thành ngữ tục ngữ của tự điển Lê Văn Đức và Lê
Ngọc Trụ cũng không có, chỉ có ở mục từ “tri thù” (thứ 2) của tự điển này – Q.
hạ, tr.1673, cột 1); rất có thể nhà nho Việt Nam đặt ra (hoặc rút gọn lại một
câu chữ Hán) và cứ thế lưu truyền(15). Nếu giả thuyết này
đúng thì việc thu thập của hai tác giả còn có ý nghĩa đối với ngành lịch sử
ngôn ngữ học, nó là một trong những bằng chứng cụ thể của việc người Việt vay
mượn Hán ngữ không thụ động mà có phần sáng tạo vào thời kỳ chữ Nôm và chữ quốc
ngữ chưa được dùng phổ biến trong văn chương học thuật cũng như trong sổ sách,
công văn giấy tờ.
Dẫu sao, khi đưa phương ngữ vào sách tra cứu có danh nghĩa
“phổ thông”, tức là dùng phổ cập trong đời sống đương đại, cần tránh cho thế hệ
đang học ở bậc phổ thông một sự nhầm lẫn, ngỡ rằng những phương ngữ và từ Hán
Việt trong sách đều là từ hiện hành, dùng rộng rãi trong cả nước. Muốn thế cần
ghi chú thật đầy đủ mấy chữ tắt (PN / TC) ở cuối mỗi từ mình chọn (vốn xếp theo
vần nên không dễ nhận biết). Việc này thì Từ điển Việt ngữ phổ thông thực
hiện phải nói hãy còn lác đác.
Hơn nữa, nếu đã thu thập phương ngữ vào sách thì không thể
chỉ giới hạn trong một vùng nào, vì sách có tham vọng dùng cho toàn quốc, và
toàn thể cộng đồng người Việt trên thế giới. Mới đọc được một lần và cũng là đọc
lướt, tôi có cảm giác các tác giả thiên về phương ngữ ở miền Nam là chính, mà
cũng chưa phải đã rà soát hết các vùng phía Nam. Tiếng địa phương của miền Tây
Nam Bộ như bự chà bá, đú quài, chăm sáo, chăm
gử, chèn ơi, có nhiêu, cơm núm xào, cười
thảo mai, dây choại, huốc rồi, mèn đét ơi, quởn
quá, thồn vào họng, xa mút chỉ cà tha, xá bấu, xàm
xí, v.v… có góp mặt trong sách nhưng cũng chưa được bao nhiêu. Huống chi
còn miền Trung, miền Bắc…, thiếu nhiều lắm, có lẽ thêm cả một Tập II cũng chưa
đủ. Mà với danh nghĩa Từ điển Việt ngữ phổ thông thì đâu có thể
nói là từ điển của một vùng được. Nó phải là từ điển của tất cả mọi vùng miền.
Vậy nên tôi nghĩ, trước khi bắt tay vào công việc, người làm sách phải tính
toán trước cách nào đó để khối lượng phương ngữ được hiện diện vừa phải và cân
đối cho cả ba miền Bắc Trung Nam. Đây là điều hết đỗi khó khăn, nhưng
không vì khó khăn mà phải né tránh (nên chăng đối với các đặc ngữ quá riêng biệt
chỉ dùng trong một phạm vi rất hẹp thì dành hết lại cho một bộ từ điển phương
ngữ sau này? Có mất đi đâu, mà sách lại không làm người tra cứu nặng tay và mệt
trí).
Có nghĩa là bản thân đầu đề Từ điển Việt ngữ phổ
thông đã đòi hỏi trong đó một sự lựa chọn. Chính hai tác giả
cũng tiến hành lựa chọn mà không tự biết. Thì hãy cùng lật lại cuốn
TĐLVĐ&LNT để rõ thêm. 53 năm về trước Việt Nam tự điển cũng
đã có chủ trương thâu lượm phương ngữ không khác gì Từ điển Việt ngữ phổ
thông. Trích một đoạn trong lời dẫn đầu sách của hai tác giả họ Lê: “Ngoài
những tài-liệu lượm-lặt trong các sách-vở, báo chí, chúng tôi đã góp-nhặt những
tiếng nói từng địa phương hẻo-lánh, từ cửa miệng của đại chúng như thợ rèn, thợ
mộc, các chị buôn gánh bán bưng, các bác nông-phu mộc-mạc quê mùa, các bậc kỳ-lão
trong các hội hè đình đám” (Q. thượng, Tựa [gồm 2 trang,
không ghi số trang]; tr. trước); “Chúng tôi hoàn toàn không đặt thêm một
danh-từ mới nào mà chỉ góp nhặt những danh-từ đã được đồng-bào từ Nam chí Bắc
dùng đến. Trung thành với nguyên-tắc này, chúng tôi không ngần-ngại kê vào và
giải-thích tất cả những tiếng lóng trong các giới bình-dân mà chúng tôi lượm lặt
được, cùng những tiếng tục mà chúng tôi đã ký chú bằng chữ “lóng” (Q. thượng, Tựa;
tr. trước).
Một cuốn tự điển đã chủ trương thu thập phương ngữ trước
mình 53 năm, nay hai tác giả soạn cuốn sách có cùng chí hướng, tại sao không tận
dụng hết thành quả của nó mà phần lớn mục từ ở các vần đều bỏ bớt? (xem lại bản
thống kê 10 vần ăn, chơi, giàu, kéo, làm, nghèo, nói, trèo, sử, xa liệt
kê ở trước). Câu trả lời là các ông đã lựa chọn và tinh giản cho phù hợp với đối
tượng đọc đông đảo đang đồng hành. Lựa chọn là phương
án đúng vì không một cuốn sách nào gồm đủ hết những tư liệu người đi trước lưu
lại. Lựa chọn ngay cả những sản phẩm đáng gọi là “đặc sản” do chính mình tìm
ra, có thế mới thức thời, dù rằng bỏ đi ai mà chẳng tiếc. Từ điển Việt
ngữ phổ thông trước sau đã không tránh khỏi câu ngạn ngữ “bỏ thì
thương vương thì tội” khiến cho về một mặt nào đấy, ở một khối lượng mục từ nào
đấy lại có thể trở thành “gánh nặng” cho thế hệ trẻ.
V.
Một điểm cuối cùng: xem xét phần giải nghĩa trong cuốn từ điển.
Ba mục II, III và IV tập trung
vào tiêu chí thu thập, chọn lọc và sắp xếp mục từ, phần việc thứ nhất chiếm một
nửa công sức của người làm từ điển. Đến mục V, soi vào ngữ nghĩa –
là nhìn vào phần việc thứ hai, chiếm một nửa công sức còn lại, xét tầm mức còn
hệ trọng hơn cả ba việc trong phần đầu, vì nó chính là mục tiêu cuối cùng mà
người làm từ điển muốn gửi đến bạn đọc.
Trên chiều lịch sử, đây là phần việc rất nặng nhưng có được
“giảm khinh” nhờ lợi thế trao truyền kinh nghiệm. Từ điển nào thì cũng cố gắng
truyền đạt ngữ nghĩa ngày càng sát đúng; dẫn tới, trải qua nhiều từ điển cùng
loại kế tục theo thời gian, mục từ cứ thế được giải mã chuẩn
xác dần, định hình nên nhiều dạng thức biểu đạt mực thước, khó thay
đổi, và các từ điển sẽ tiếp nhận nhau, lặp lại nhau, chuyện cũng thường thấy. Một
từ điển xuất hiện sau cùng tính đến thời điểm hiện tại như Từ điển Việt
ngữ phổ thông càng có cơ hội rút tỉa kinh nghiệm của loạt từ điển ra đời
trước nó.
Biết vậy mà vẫn phải nhìn nhận công việc giải nghĩa của người
soạn sách – hai đồng tác giả – trong hơn thập niên qua là không chút dễ dàng. Bởi
đã là cuốn từ điển mới nhất về ngữ thì bao giờ cũng phải có ý nghĩa một kho
chứa từ ngữ sống. Cái đã nằm trong sách vở (từ điển ra trước) muốn được tái
xác nhận là “sản phẩm” cũng phải tìm mọi cách tái hòa nhập vào giữa đời sống, để
chính cuộc sống kiểm nghiệm và kích hoạt trở lại. Chỉ đơn giản có thế nhưng là
đòi hỏi không biết bao nhiêu thao tác, nhằm vượt qua bao nhiêu rào cản, từ đấy
đủ loại tri thức thượng vàng hạ cám của thời đoạn hôm nay – không chỉ riêng ở một
nước bản ngữ mà thôi – mới… (bắt chước cô Tấm trong truyện Tấm Cám)
“chui vào tay áo nhà nghiên cứu”, hiện ra dưới vô số mục từ mới của
1274 trang sách. Mới theo nghĩa mới tinh làmột
tỷ lệ không lớn nhưng số rất lớn mới ở hình thức bình
cũ rượu mới, và số nhỏ hơn bề ngoài tưởng nguyên trạng cũ kỹ kỳ thực đã được phả
một sức sống mới bên trong – giúp người đọc dựa vào đó tái nhận dạng
thế giới và chính mình. Lời văn của giải nghĩa và cả cách viết
chính tả trong phần này, cũng là bằng chứng đầu tiên minh chứng việc soạn giả thực
hành bộ từ điển trong thực tế viết của các ông, nó chỉ rõ chỗ nhất
quán và bất nhất, ổn và chưa ổncủa những nguyên tắc mà các ông đã cố gắng đúc kết
sau nhiều năm. Có thể thấy, qua mục V cực kỳ quan trọng dưới
đây, bộ từ điển, bên cạnh những mặt thành công, còn để lộ một số bất cập, khiếm
khuyết – mà người may mắn được tặng sách cân nhắc thấy có thể đem ra trao đổi,
một cách thiết thực đáp lại tấm lòng tri ngộ của hai ông. Đúng hay sai xin cứ lần
lượt nêu lên thành từng vấn đề có tính chất gợi ý để các ông suy xét, và hy vọng
cũng được bạn đọc tham gia luận bàn.
V-1 Về nội dung các lời giải nghĩa
Đối với một từ điển phổ thông, lời giải nghĩa cần đúng, gọn
và dễ hiểu. Khá nhiều mục từ giải thích hay, có sáng tạo, nhưng cũng nhiều mục
từ giải nghĩa chưa trúng, có khi thiếu hay thừa nghĩa, có khi chệch ra ngoài
nghĩa chuẩn của từ. Về diễn đạt và trình bày, có vẻ như việc định ra một số “tiểu
luật” nhằm xây dựng khung ngữ nghĩa chung đối với từng loại từ
khác nhau (từ cụ thể và từ trừu tượng, từ giản đơn và từ phức hợp, từ phổ thông
và từ chuyên môn, từ cận nghĩa và từ đồng nghĩa, phương ngữ và thành ngữ, v.v.)
vốn phải tính đến đầu tiên, lại chưa được các tác giả quan tâm, để khi tiến
hành đỡ phần tùy tiện, hoặc vô tình xung đột với nhau. Trong đó, cần thiết có
những bước triển khai tương đối thống nhất ở các mục từ cùng một loại (chẳng hạn,
với loại từ chỉ sự vật/sự việc cụ thể chiếm tỷ lệ rất lớn, nên quy ước theo mấy
bước: thể loại, hình dáng, đặc điểm (tính
năng), công dụng, v.v… để thực hiện cho đồng đều, tất nhiên không
áp dụng rập khuôn mà có châm chước), thì bộ sách lại làm khác đi, khiến mục từ này
và mục từ khác nhiều khi mất cân đối.
Dưới đây là 30 trường hợp, phần lớn mới rút ra ở một vần B (có
thêm vài ba trường hợp thuộc các vần A, G, H, P do
liên đới), dùng làm ví dụ cho những điều thấy cần góp vào chi tiết. Theo phép
loại suy, bạn đọc có thể lượng định những gì tồn tại trong 29 vần còn lại (29 vần
là do sách quy định). Nếu bạn đọc cảm thấy góp ý hơi dài, người viết đành xin
miễn thứ, vì đã góp phải góp bằng hết, đã dẫn một vần B chẳng hạn phải dẫn tới
cùng.
V-1-1 Giải nghĩa sai nghĩa (hoặc
bị ám ảnh bởi câu dẫn chứng đi kèm nên xa rời nghĩa chính)
– Ví dụ 1, bóp bẹp: “đt [động từ]; làm
cho vật đang đầy đặn thành méo mó” (tr.54, cột 1). Giải nghĩa sai, vì “bẹp”
không trùng nghĩa với “méo mó”. “Bẹp” là dẹp lép, còn “méo mó” chỉ mới là dúm
dó chỗ này chỗ kia. Đem chữ “dẹp lép” thay vào chữ “méo mó” thì mới trúng nội
hàm từ bóp bẹp.
– Ví dụ 2, bỉnh bút: “dt [danh từ]; nhà
chuyên viết phê bình trên báo” (tr.49, cột 1). Giải sai nghĩa, do không nắm
chắc nghĩa chữ Hán của từ Hán Việt. Bỉnh bút 秉筆có
nghĩa là cầm bút, được dùng để nói người giữ chân viết lách cho một tờ báo, ăn
lương của báo và làm nhiều việc, không nhất thiết viết phê bình mà có thể viết
phóng sự, viết truyện… Từ bỉnh bút rất thông dụng từ 1945 trở
về trước, đến nay báo chí không còn dùng, vì thế các soạn giả bị nhầm lẫn.
– Ví dụ 3, ấm, nghĩa 4 [nghĩa 1, 2,
3 đúng rồi nên không nêu]: “dt; từ chỉ một người con trai một cách bông
đùa hay chế giễu (cậu ấm nhà ta hôm nay ăn mặc bảnh ghê)” (tr.11, cột 2).
Nên tách nghĩa 4 thành một từ riêng vì không cùng loại với 3 chữ ấm đi
trước. Cũng như bỉnh bút, với từ ấm nghĩa 4
cần giới thuyết ngay là từ Hán Việt, khác ba ấm kia (1, 2, 3)
đều là từ thuần Việt. Nghĩa đen Hán Việt của ấm không hề “chỉ
một người con trai một cách bông đùa hay chế giễu”, mà là: bóng râm rủ xuống từ
cây cao. Nghĩa này đã bị lãng quên sau hơn một thế kỷ học chữ Hán bị xóa bỏ,
nhưng có nắm được mới hiểu tiếp sang nghĩa bóng: ấm là phần
phúc trạch con cháu được thừa hưởng từ các bậc cha ông có công lao với triều
đình. Dẫn thân: ấm là người con trai hay cháu trai được hưởng
phúc ấm. Khi đã thông suốt cả hai nghĩa đen và bóng sẽ nhận ra, dù nghĩa
nào ấm cũng không có ngụ ý bông đùa chế giễu như đã giải thích
(bông đùa là nằm ở dạng thức câu văn dẫn mà người soạn nên tránh, không để tư
duy lạc vào đấy).
– Ví dụ 4, béo: “tt [tính từ];
1. mập, thân thể có nhiều mỡ; 2. có nhiều dầu mỡ (bắp nướng
phết bơ béo ngậy); 3. có nhiều lợi nhuận (nhà thầu béo vì đống
sắt vụn)” (tr.39, cột 2). Nghĩa 2, nghĩa 3 đều chưa phải là giảng, chỉ cốt
làm rõ 2 ví dụ minh họa, nhưng lại khiến người đọc hiểu lờ mờ và rất dễ hiểu chệch,
tưởng béo là tính từ số nhiều dùng cho dầu mỡ hoặc lợi nhuận.
Thực tế, nói “béo ngậy” do “có nhiều dầu mỡ” (nghĩa 2) là sai. Chỉ một tí dầu
hoặc mỡ bỏ vào chảo đun đã dậy mùi ngay, còn dầu mỡ bỏ trong chai có nhiều
đến mấy cũng không thể “béo ngậy”. Lợi nhuận cũng thế, có những doanh nghiệp
năm nào cũng thu về số lãi rất lớn mà có ai gọi họ là doanh nghiệp “béo” đâu.
Trở lại nghĩa đen (nghĩa 1), định nghĩa “béo là thân thể có nhiều mỡ”, chưa đủ.
Nên làm rõ béo là một hiện tượng phát sinh từ quá trình chuyển
hóa của dầu mỡ (tích đọng trong cơ thể do ăn uống hoặc bỏ vào chảo rán khiến ngậy
mùi). Ở nghĩa bóng (nghĩa 3), béo là một cách nói hoán dụ,
có mang ý so sánh đối với người đầu tư rất xoàng xĩnh mà thu
được lợi nhuận cao (cũng là sự chuyển hóa nhanh chóng của số vốn bỏ ra).
– Ví dụ 5, bí ẩn: “tt; giấu
kín, không để lộ ra ngoài” (tr.43, cột 1). Lẫn lộn về loại: “giấu kín” thuộc
hành vi của con người, “bí ẩn” là điều con người cảm thấy. Một người, một vật,
một việc chứa bên trong điều gì lạ lùng, khó hiểu, không thể giải thích, đều được
coi là bí ẩn. Bí ẩn là “cái chưa biết” đối với tất cả mọi người,
trong khi giấu kín chỉ là “che mắt” người ngoài, chủ thể vẫn
biết rất rõ.
– Ví dụ 6, bù đắp: “đt; giúp đỡ
người túng thiếu (cha mẹ bù đắp cho con)” (tr.61, cột 2). Chữ “bù” có nghĩa
bỏ vào chỗ bị thiếu hụt cho đầy lại; chữ “đắp” là đập thêm vào cho vững chắc chỗ
bị xói lở. Vậy “bù đắp” không phải là bố thí cho bất cứ người túng thiếu nào.
Mà người nào, việc nào, nơi nào có mối liên quan mật thiết với mình gặp một thiệt
hại nào đấy, mình đem của cải, sức lực bỏ vào mong lấp được phần thiếu hụt của
họ thì mới gọi là bù đắp. Đó là nghĩa 1. Sang nghĩa 2: chăm lo giúp
đỡ cho người thân để bù lại những thiếu thốn họ đã chịu đựng trong thuở hàn vi
chung sống với mình (bù đắp cho con cái).
V-1-2 Giải nghĩa không đủ nghĩa
– Ví dụ 1, bời lời: “dt, (thực); có
nhiều loại, riêng loại đỏ là loại cây được trồng ở các vùng cao nguyên Việt
Nam, có nhiều công dụng. Vỏ cây làm thuốc, nguyên liệu keo dán sơn và nhang đốt,
lá dùng làm thức ăn gia súc; gỗ dùng để đóng đồ dùng hoặc làm nguyên liệu giấy”
(tr. 60, cột 2). Đây là tên một loại cây cụ thể. Đọc xong, đem so với trình
tự triển khai một mục từ cụ thể mà vào đầu tôi tạm giả định, sẽ thấy bất
ổn. Ta vẫn không biết cây bời lời là cây gì, thuộc thể loại (họ hay bộ) gì,
phân ra làm mấy nhánh, hình dáng thế nào, đặc tính sinh trưởng ra sao; chỉ biết công
dụng của riêng một nhánh bời lời đỏ. Như thế, giải thích dài mà chưa
có lời giải nghĩa.
– Ví dụ 2, bùa chú: “dt (tín); hình
vẽ hay chữ viết trên tấm thẻ hoặc tờ giấy của phù thủy, thường là những hình vẽ
hay nét chữ bí hiểm, huê dạng, khó hiểu” (tr.62, cột 1). Cũng chỉ mới thỏa
mãn điểm đầu tiên là hình dáng, còn thể loại, đặc tính, công dụng… của bùa chú,
chưa ai hiểu gì cả.
– Ví dụ 3, bõm: “trt [trạng từ]; nói
một vật nhỏ rơi mạnh xuống nước (quả sung rơi bõm xuống mặt ao” (tr.52, cột
1). Cần chỉ được thể loại của bõm là tiếng động (âm thanh),
cũng không phải là tiếng động với âm lượng lớn. Nên sửa: “tiếng động khi có vật
nhỏ rơi xuống nơi nước lặng”.
– Ví dụ 4, bung xung: “dt; kẻ
bị đám người khác lợi dụng cho xuất đầu lộ diện làm việc này việc kia để che giấu
các âm mưu của họ phía sau” (tr.63, cột 1). Giải nghĩa bỏ mất phần nghĩa gốc.
“Bung xung” nguyên là một vật mà người lính đi đánh trận thuở xưa dùng để che
hòn tên mũi đạn. (TĐHP: “Bung xung: Vật để đỡ tên đạn khỉ ra trận ngày xưa”
(tr.68). Ca dao: “Thân em đi lấy chồng chung / Khác nào như
cái bung xung chịu đòn”). Từ nghĩa ban đầu “cái bung xung” (vật cụ thể) được
nhân cách hóa thành tên chung gọi kẻ đứng ra đỡ đòn cho một phía giữa hai bên
tranh chấp, cãi cọ nhau. Ta thường gọi nghĩa sau là nghĩa phái sinh.
– Ví dụ 5, bây: “1. đdt [đại danh từ]
(ngôi thứ ba); bọn mày (bây đi đâu mà không nói cho ai biết vậy);
2. tt; ngang, bướng, ẩu (giở bài bây); 3 trt; ngoan cố,
ngang bướng (cãi bây)” (tr.38, cột 1). Ba nghĩa nhưng là 2 từ chứ không thể
gồm trong một từ. Bây 1, đại danh từ (cần thêm: phương ngữ miền
Nam), không phải ngôi thứ ba mà ngôi thứ hai số nhiều, tương đương “bay” của miền
Trung và “chúng mày” của miền Bắc. Bây 2, ngang bướng, cũng cần
thêm: nguyên gốc là phương ngữ miền Trung, lý do là bên cạnh những từ kép đã phổ
thông hóa như cãi bây (cãi chày cãi cối, từ chuyện này kéo
sang chuyện nọ); bài bây (chơi bài theo lối cù nhầy, thua rồi
mà không chịu bỏ cuộc, cố nèo chơi hết ván này đến ván khác(16)),
hiện vẫn còn một ít từ kép chỉ đóng khung trong vùng Nghệ Tĩnh, như lây
bây giống lây nhây; cù bây giốngcù nhầy; bây
ba, bây bửa chỉ thái độ dây dưa, biết sai trái mà vẫn lần khân, trơ ỳ,
không chịu thay đổi. Quan trọng, bây phương ngữ miền Trung còn
một chức năng khác bị bỏ sót: là động từ với nghĩa dây bẩn ra, bôi bẩn ra,
như bây tay là dây bẩn ra tay (có lẽ Câu thơ Hồ Xuân Hương
nguyên gốc phải là Xin đừng mân mó nhựa bây tay). Bây động
từ thật rakhông bó hẹp trong phương ngữ miền Trung. Trong TĐLVĐ&LNT bây cũng
được chia thành 2 từ riêng rẽ, bây 1 có nghĩa “trây” (Q. thượng
tr.86, cột 1); tra tiếp trây: “Đt [động từ], “trét vào rồi kéo lan
ra rộng (trây hồ, trây bùn)”; đọc thêm từ kép trây
nhựa: “đt [động từ], làm vẩy nhựa, trét nhựa tèm lem ra” (Q. hạ, tr.1658, cột
1&2). Rõ ràng, bây 1 của miền Nam có cùng chức năng động từ
và cùng nghĩa “dây bẩn ra” của bây miền Trung.
– Ví dụ 6, bâu: “1. dt; cổ
áo (áo không bâu như trầu không cau – tng [tục ngữ]); 2.đt; xúm
đến (trẻ con bâu thật đông); bám vào (con ruồi bâu vào thức ăn)” (tr.37, cột
1). Phải coi hai nghĩa là hai từ khác biệt, không phải hai nghĩa của một từ.
Song còn một nghĩa nữa, làm thành một từ bâu thứ ba, cũng khá
phổ biến, không hiểu sao người soạn không đưa vào: bâu là
phương ngữ miền Trung, có nghĩa túi áo. TĐHP chú: nghĩa “cổ áo” là nghĩa
cũ; và nghĩa “túi áo” là phương ngữ (tr.52, cột 1).
Bản thân tôi thuở nhỏ sống ở quê nhà Hà Tĩnh, thấy người nông dân nghèo thường
mặc áo không có túi gọi là “áo không bâu”, và cũng nghe câu ca dao huê tình của
trẻ em chăn trâu hát: “Thương ai mặc áo không bâu / Lấy chi mà đựng miếng trầu
em têm / Trở về dằn dọc thâu đêm / Tìm trầu không có, người têm khó tìm”.
– Ví dụ 7, bi kịch: “dt; 1.
Vở kịch có nội dung buồn; 2. Chuyện rất buồn xảy ra ngoài đời” (tr.42, cột
2). Một từ điển tiếng Việt biên soạn khoảng 1945 trở về trước thì giảng thế
cũng ổn, vì thuở bấy giờ trình độ phổ thông trung học nhìn trên cả nước còn rất
ít, trường phổ thông trung học chỉ mới có vài ba khắp Bắc Trung Nam. Nhưng nay
là thời điểm 2023-24, mỗi tỉnh đều có không dưới 10 trường phổ thông trung học,
khoa ngữ văn trong trường đại học cũng đã mở ở nhiều trường – mà từ điển này lại
công bố ở hải ngoại; thế nên cần thêm vào một nghĩa quan trọng giúp đại chúng
hiểu rộng hơn về bi kịch: “một thể loại trong bộ môn chính kịch,
trong đó xung đột được đẩy tới cao trào, lấy cái bi làm điểm thắt nút, có từ thời
Cổ đại Hy Lạp”. Cũng vậy, mục từ hài kịchgiảng “dt; kịch
vui” (tr.315, cột 2), nên bổ sung: “một thể loại trong bộ môn chính kịch,
xuất hiện sau bi kịch, có từ thời Cổ đại Hy Lạp, xung đột được mở nút từng bước
gây tiếng cười cho khán giả”.
V-1-3 Giải nghĩa nhiều khi cảm tính, chỉ
nêu được nghĩa bám ngoài mặt chữ
– Ví dụ 1, bỏ túi: “tt; nhỏ
đến nỗi có thể bỏ túi được (từ điển bỏ túi)” (tr. 51, cột 1). Nhìn vào
nghĩa hiển lộ trên chữ và cứ thế lặp lại nó, đó là cách giải nghĩa cảm tính. Một
từ đơn giản như “bỏ túi” hiểu cho đầy đủ phải bao gồm 3 nghĩa: 1. Nghĩa đen:
hành vi đưa một vật vào túi áo; 2. Nghĩa bóng: hành vi ăn cắp vặt giống như
“thó”, “nẫng” (Ví dụ: Mới bỏ chiếc đồng hồ ra bàn một chốc mà không biết
tay nào bỏ túi mất rồi); 3. Nghĩa tượng trưng hiện đại mới có gần
đây: Chỉ những vật thể, sự việc có kích cỡ, thời lượng thu nhỏ lại dưới mức
được coi là tiêu chuẩn thông thường (Ví dụ: câu chuyện bỏ túi, kinh
nghiệm bỏ túi, vụ án bỏ túi, xe hơi bỏ túi…).
– Ví dụ 2, béo phệ: “tt; đã
mập lại lùn và có cái bụng đầy mỡ” (tr.39, cột 2). Nói “lại lùn” là cảm
tính; người cao mà béo và phệ bụng thì vẫn phải gọi là béo phệ chứ
biết gọi là gì? Nói chung, cảm tính là điều tối kỵ trong biên soạn từ điển, dễ
dẫn đến thừa ý.
– Ví dụ 3, bạn đường: “dt; giống
như bạn đời (ý nói hai vợ chồng sống chung và chia sẻ mọi nỗi vui buồn trên đường
đời)” (tr.23, cột 2). Bạn đường sao có thể giống bạn
đời được. Giữa “đường” và “đời” có một ý nghĩa biểu tượng về thời gian
không trùng lẫn. Kết bạn trên đường, dẫu là quãng đường rất xa cũng chỉ là một
quãng. Trong khi kết bạn đời là dành cho nhau suốt cả cuộc đời. Trong các câu
ca dao “Đôi ta như thể bạn đường / Gió mưa cùng núp, dặm trường có đôi”;
“Đôi ta như thể con ong / Con quấn con quýt con trong con
ngoài”; “Đôi ta như thể con tằm / Cùng ăn một lá cùng nằm
một nong”… (đều là nhóm ca dao thuộc thể “tỷ”), tác giả khuyết danh có dùng
những hình ảnh “bạn đường”, “con ong”, “con tằm” để so sánh với “đôi ta” nhưng
so sánh không phải là đồng nghĩa. Chỉ cần đem “bạn đời” thay cho bạn đường trong
câu 1: “Đôi ta như thể bạn đời”, thì “đôi ta” đã thành một cặp vợ chồng
giả, là câu nói vui của hai kẻ kết giao ngẫu nhiên trên đường. Cũng thế, nếu vì
thấy có sự ví von giữa “đôi ta” với “con ong”, “đôi ta” với “con tằm” mà định
nghĩa “con ong”: giống như bạn đời; “con tằm”:
giống như bạn đời… thì thành ngớ ngẩn vô lý. Giảng nghĩa bạn đường giống
như bạn đời là lâm vào tình trạng ấy. Qua ca dao cũng có thể rút ra
nét khu biệt chính yếu giữa hai thứ “bạn”: bạn đường chỉ
như thể “vợ chồng” trong khi “bạn đời” đích thực là “vợ
chồng”.
– Ví dụ 4, bản lãnh: “dt; tài
năng đặc biệt hơn người” (tr.23, cột 1). Giảng rất khiên cưỡng, do hiểu
mang máng hai chữ bản lãnh. Tài năng và bản lãnh thuộc
hai phẩm chất không cùng loại với nhau. Tài năng là năng khiếu bẩm sinh, do trí
tuệ và các giác quan có sự nhạy bén khác thường nào đấy, trong khi bản lãnh là
một đức tính thuộc chí khí, cốt cách của con người. Cả hai phương diện tài năng
và bản lĩnh đều cần được trau dồi thường xuyên để hiển lộ ra và phát huy hiệu
năng của chúng, nhưng một bên, tài năng, đưa đến những đóng góp xuất sắc trong
chuyên môn, một bên, bản lĩnh, giúp con người trở nên cứng cỏi kiên định, dám đứng
ra đương đầu với những khó khăn, dẫu gặp trở ngại vẫn không lùi bước. Không ai
khen một họa sĩ “có bản lãnh vẽ tranh như Léonard de Vinci” (trừ phi có gửi ngầm
một ý châm biếm) mà chỉ khen “có tài vẽ tranh như Léonard de Vinci”. Cho thấy
“tài năng” và bản lãnh là hai phạm trù không thể đánh đồng,
cũng không thay thế cho nhau được.
V-1-4 Giải nghĩa vừa thừa vừa thiếu
(đem cái bộ phận chỉ cái toàn thể; đặt hai đại lượng
không cùng loại trong quan hệ so sánh; thêm thắt những chi tiết phụ – mục đích,
nguyên nhân – làm lấn át và mờ nghĩa chính)
– Ví dụ 1, bớt lửa: “đt; vặn
nhỏ bếp (điện hay ga) để ngọn lửa nhỏ đi hay chỉ giữ ít than hồng lại (bếp
than), cho thức ăn bên trong nồi khỏi cạn hay cháy trong lúc nấu” (tr.61, cột
1). “Vặn nhỏ bếp” đúng là một việc làm bớt lửa, nhưng chỉ đúng trong việc bếp
núc. Nếu không phải nấu cơm mà đốt lửa trại, gặp lúc ngọn lửa bốc cao quá phải
rút một phần củi ra thì có gọi bớt lửa được không? Thế chẳng
phải nghĩa tổng quát của mục từ không được nhắc tới mà đoạn bàn thêm mục đích
việc vặn nhỏ bếp “cho thức ăn bên trong nồi khỏi cạn hay cháy trong lúc nấu”
đưa vào lại không cần thiết khiến lời giải dài dòng?
– Ví dụ 2, bộ mặt: “dt; 1.
Hình dáng bên ngoài (bộ mặt thành phố); 2. Vẻ tình cảm bộc lộ ra bên ngoài của
người ta (bộ mặt anh ta tươi rói)” (tr. 56, cột 1). Cả 1 và 2 đều tối nghĩa
và phi lôgic, chỉ cốt làm rõ hai dẫn chứng đi kèm. “Hình dáng bên ngoài” là một
khái niệm không xác định (hình dáng bên ngoài của cái gì), không thể dùng định
nghĩa cho bộ mặt là một khái niệm cụ thể. “Hình dáng bên
ngoài” lại là khái niệm toàn xưng (toàn thể bên ngoài của một vật gì đó), trong
khi bộ mặt là một khái niệm đặc xưng (chỉ thu hẹp ở một phần
hình dáng bên ngoài mà thôi). Đem cái không xác định định nghĩa cái cụ thể là
phi lý, đem cái toàn xưng định nghĩa cái đặc xưng càng phi lý. Không ai nói
hình dáng bên ngoài của cây cối, của quả núi, của máy bay là “bộ mặt cây cối”,
“bộ mặt quả núi”, “bộ mặt máy bay”. Nghĩa 2 cũng vậy, “vẻ tình cảm bộc lộ ra
bên ngoài của người ta” không thể nào là bộ mặt người ta, vì
tình cảm là một trạng thái tâm lý, lúc bộc lộ ra ngoài lúc không bộc lộ, bộc lộ
ra ở mặt mà cũng có khi ở những phần khác trên cơ thể (xúc động dậm dật chân
tay), còn bộ mặt thì lúc nào cũng lồ lộ, không biến đi đâu được,
lại gắn với cơ thể con người ở một vị trí nhất định phía trước đầu, không xê dịch
được. Nghĩa đen của bộ mặt tóm lại là toàn thể dáng vẻ, sắc diện
hiển hiện trên khuôn mặt. Đi sâu vào sẽ thấy thêm: sắc diện ngoài mặt có thay đổi,
biểu hiện thần thái bên trong từng lúc của con người hay con thú. Bộ mặt vì
thế có một nghĩa thứ hai mang sắc thái tu từ, chỉ hình dáng bên ngoài của một sự
vật gì mà người quan sát nhìn vào cảm nhận ra thực chất bên trong của nó (bộ mặt
ngôi làng, bộ mặt thành phố,…).
– Ví dụ 3, bòn mót: “đt; để
dành dần bằng cách thu nhặt, lượm lặt thật kỹ, không bỏ sót tí nào” (tr.52,
cột 2). Đặt mục đích việc “bòn mót” lên đầu, khiến ai cũng tưởng “để dành dần”
chính là bòn mót. Nhưng bòn mót nhằm để dành dần chỉ đúng với một
ít tình huống cá biệt. Trong quá khứ, cứ đến vụ gặt, rất nhiều người dân nghèo
khó đổ ra đồng bòn mót lúa đã gặt xong ngoài ruộng, thì bòn mót đối
với họ là để ăn ngay, tức hoàn toàn ngược lại “để dành dần”. Thành thử “để dành
dần” đặt vào đây như hệ quả đương nhiên của mọi hành vi bòn mót là
không phù hợp. “Thu nhặt, lượm lặt thật kỹ” cũng không đúng nghĩa bòn
mót nếu hành vi đó chỉ một thao tác làm việc ở khâu cuối trong dây
chuyền thu hoạch sản xuất. Phải là lượm lặt lại kỳ hết những gì còn sót trên phần
đã thải loại ra sau khi thu hoạch, thì mới là bòn mót.
– Ví dụ 4, bàn mảnh: “đt; bàn
riêng trong một nhóm nhỏ (sau khi bất đồng ý kiến với số đông)” (tr.22, cột
2). Nói bàn riêng “sau khi bất đồng ý kiến với số đông” là khẳng định một
nguyên nhân cụ thể sinh ra việc bàn mảnh, chưa chắc đã đúng với chữ
“mảnh” vốn mang một chút mập mờ về ngữ nghĩa, không rõ ra ý bất đồng mà gợi lên
sự riêng rẽ, tách biệt, có hàm ý mỉa mai. Trong bàn mảnh có
cái gì đó như muốn giấu giếm, hoặc muốn dành cho mình phần lợi riêng. “Ăn mảnh”
là ăn một mình, kiếm chác được món hời riêng cho mình; bàn mảnh là
bàn riêng giữa đồng bọn với nhau, không muốn để nhiều người biết.
– Ví dụ 5, bà sơ: “(ck bà xơ) dt; 1.
(gốc sœur, tiếng Pháp) nữ tu Công giáo; (trong chế độ phong kiến từ
bà thường được dùng để tỏ sự tôn kính đối với người có chức tước, nhưng trong
thời đại mới mà dùng từ bà để gọi các nữ tu thường quá trẻ thì thấy không ổn,
vì thế chỉ nên dùng bà sơ cho các nữ tu Công giáo đã trọng tuổi); 2.
Mẹ của ông bà cố (ông cố bà sơ)” (tr. 17, cột 1). Giữa hai nghĩa 1 và 2, lọt
vào một câu “bàn thêm” khá dài, không giải thích mà là một lời khuyên, rằng tuổi
nào thì nên đặt chữ “bà” trước chữ “sơ” và tuổi nào thì không nên. Nhưng sách
không phải là cuốn “từ điển khuyến cáo cách dùng từ”, chỉ là từ điển ngữ nghĩa,
và đối tượng giảng là từ kép bà sơ, không riêng chữ“sơ”. Vì thế, tốt
nhất là nên bỏ đoạn “ngoại đề” này.
V-1-5 Giải nghĩa thành ngữ không sáng nghĩa
– Ví dụ 1, buôn thần bán thánh:
“thn [thành ngữ]; lợi dụng lòng mê tín của người đời để nói đền này
linh, miếu kia thiêng, tượng nọ ban phước lớn, để lôi cuốn khách thập phương đến
cho nhiều mà làm tiền” (tr.64, cột 1). Trình bày kể lể như lối viết tường
thuật, không đưa ra được một nghĩa chung sáng tỏ, lại vi phạm điều cấm kỵ trong
từ điển cần cách giảng vắn tắt. Thường mỗi câu thành ngữ đều đúc kết thực tế bằng
một vài hình ảnh nén lại trong dăm ba từ hàm súc và tỉnh lược, có kết cấu đối xứng,
làm cho nghĩa đen cũng trở thành ẩn, để gửi ngầm một nghĩa bóng có giá trị khái
quát hơn. Vì thế, giải thích nên tùy từng câu “cởi nén” để lộ đầy đủ nghĩa đen
(tầng nghĩa 1), sau đó chuyển nghĩa đen sang nghĩa bóng (tầng nghĩa 2). Nếu
nghĩa đen đơn giản không mang nhiều ẩn dụ thì không cần tách thành hai mà gộp
vào một lời giải thống nhất. Như câu trên, giảng: “lợi dụng mê tín hoặc tôn
giáo để tìm đủ cách làm tiền khách thập phương” là đủ, không phải phân tích
buôn thần là gì, bán thánh là gì. Ngược lại, với câu thành ngữ kế tiếp (ví dụ 2
ở dưới), chỉ giảng vắn tắt nghĩa bóng sẽ khó lòng thỏa mãn được người nghe.
– Ví dụ 2, buôn thất nghiệp lãi quan viên:
“thn; buôn nhỏ mà lời to” (tr.64, cột 1). Hình ảnh được dùng ở
thành ngữ này rất bóng bẩy, lời giải thích không sai nhưng quá vắn tắt nên chưa
mở được chìa khóa chữ nghĩa, đọc xong vẫn có gì đó lý trí chưa thông. Cần bổ
sung thêm vài chữ làm rõ “buôn thất nghiệp” là thế nào (buôn rất ít vốn giống
như phường thất nghiệp trong túi chỉ có vài đồng) và “lãi quan viên” là thế nào
(lãi thu về cực lớn giống như đám quan lại tiền trăm bạc vạn), như thế nghĩa cả
câu mới thật sự phơi bày.
– Ví dụ 3, bứt mây động rừng:
“thn; gây sự với một cá nhân cũng có thể đụng chạm đến cấp trên hay người
“chống lưng” của người này, làm vỡ lở một chuyện nhỏ cũng có thể tác động tai hại
đến cả một hệ thống” (tr.67, cột 2). Một dị bản khác là rút dây động
rừng phổ biến hơn câu trên, và trong từ điển cũng có câu dứt
dây động rừng (tr.200, cột 1) nhưng không giảng. Về chữ nghĩa, nên
dùng “rút dây động rừng” thay cho cả hai câu (rút dây đúng
hơn dứt dây hay bứt mây: “dây” chỉ rút chứ không dứt;
“mây” là một cá thể, còn “dây” bao gồm trong đó cả “mây). Về nội dung, giải
thích như tác giả gây cảm tưởng thiếu hụt, xa lạ với các hình ảnh chứa đựng
trong câu thành ngữ, ở đây là mối quan hệ giăng mắc rất tự nhiên giữa các loài
cây trong rừng, từ nhỏ nhất như dây leo đến cả khu rừng to lớn. Chỉ cần rút một
sợi dây leo, nhưng dây leo vốn có rễ bám chằng chịt với cây cối xung quanh, mà
dây leo trong rừng thường bò lan rất xa, nên hễ rút một sợi thôi đã chuyển động
đến cả rừng cây. Từ đó suy ra nghĩa bóng: mỗi con người sống giữa một cộng đồng
lớn hay bé đều bị ràng buộc vào cộng đồng bởi không ít quan hệ xã hội giản đơn
hay phức tạp, kể cả những liên kết phe nhóm, bè cánh chìm hay nổi. Chỉ cần xử sự
một việc liên quan đến một cá nhân cũng có thể dắt dây đến cả một thế lực tốt xấu
gián tiếp đứng phía sau. Ta thấy, mối liên kết biện chứng giữa hai nghĩa đen và
bóng ở câu thành ngữ rất chặt chẽ, bỏ đi một vế nào khi giảng cũng là phiến diện.
V-1-6 Giải nghĩa từ cổ chưa chọn đúng nghĩa
cổ.
– Ví dụ 1, bật bông: “đt; làm
hột tách ra khỏi quả bông gòn bằng một thiết bị bằng tre” (tr.37, cột 1). Đọc
lời giảng, có phần chắc tác giả sống ở thành phố nên không từng chứng kiến những
bãi đất trồng bông dệt vải ngày xưa, chỉ biết có mỗi loại bông gòn dùng nhiều
trong y dược. Nhìn lại đời sống nông dân nước ta thuở trước, trồng bông may áo
là một trong những việc chính, cũng như trồng lúa để có gạo ăn. Cây bông cho ra
quả, trong quả có xơ bông bao bọc nhiều hạt bông ở giữa. Sau khi phơi quả bông
thật khô, phải dùng một cái “xa cán bông” để tách xơ bông khỏi hạt theo cách thủ
công cổ truyền. Nhưng bông cán xong vẫn chưa hết các tạp chất và bụi bẩn nên
chưa trắng. Lại phải thực hiện một công đoạn tiếp theo là đem bông vào “máy bật
bông” để bật – máy hình cánh cung rất lớn, có sợi dây bằng thép căng thẳng cho
cánh cung cong lại, dùng chiếc dùi gỗ đánh vào sợi dây thép làm cho bông tơi
ra, nhờ đó tạp chất và bụi bẩn bắn ra vòng ngoài, tách khỏi phần xơ bông. Muốn
cho bông thật trắng thì phải bật đi bật lại nhiều lần: “Bật bật bòng bòng / Nhiều
tiền thì trong / Ít tiền thì cắn [cặn] / Bật
bật bắn bắn / Ít tiền thì cắn / Nhiều tiền thì trong”.
Ngoài việc bắn bông mới thu hoạch, người thợ bật bông còn nhận bắn tơi cả những
áo bông cũ, mặc lâu ngày bông đã xẹp xuống, để sau khi bật đem may lại dùng, sẽ
ấm như áo mới. Có lẽ việc bật bông gòn là bắt chước cách thức bật bông xe sợi
đã có từ rất lâu đời. Trong tư cách một nhà từ điển học, giảng một từ cổ nên
tìm đến cả nghĩa nguyên thủy và nghĩa sinh sau, không lấy nghĩa sinh sau làm
nghĩa chính gốc.
– Ví dụ 2, Ba hồn chín vía: “1.
đt; linh hồn người chết (ới ba hồn chín vía cậu Ba về mà ăn xôi nghe
kèn); 2. trt; kinh hãi quá (sợ hãi mất cả ba hồn chín vía)”
(tr.15, cột 2). Đây cũng là một tổ hợp từ rất cổ, gắn với tín ngưỡng xưa của
người Việt (có chịu ảnh hưởng tín ngưỡng Đạo giáo Trung Quốc), coi hồn và vía
là hai thực thể tinh thần luôn gắn với thể xác con người (Đạo giáo TQ gọi là hồn
và phách). Chỉ khi người ta chết thì hồn và vía mới tách lìa khỏi xác. Tín ngưỡng
của Việt Nam còn phân biệt hai giới nam và nữ, hồn như nhau nhưng vía khác
nhau. Nam có ba hồn bảy vía (có thuyết nói do trong cơ thể có bảy lỗ) và nữ có
ba hồn chín vía (cơ thể có chín lỗ). Một khi người đàn ông qua đời hoặc bỗng
dưng ngất lịm đột ngột, muốn gọi cho tỉnh lại thì phải gọi to: “hú ba hồn bảy
vía ở đâu mau trở về nhập xác”; nếu là người đàn bà thì gọi: “hú ba hồn chín
vía” (xem: Việt Nam văn hóa sử cương (1938) của Đào Duy Anh;
xem thêm Tắt đèn (1939) của Ngô Tất Tố). Tín ngưỡng gốc là thế
nhưng trải qua hàng thế kỷ, địa bàn cư trú trải rộng, dân Việt đi dần vào phía
Nam mang tín ngưỡng đi theo; dân gian thường chỉ truyền miệng cho nhau, đến cư
trú vùng nào lại pha tạp với tín ngưỡng của tộc người bản địa sở tại, nên không
tránh khỏi rơi rụng và sai lạc… Đọc mục từ ba hồn chín vía thấy
người soạn đã có ý thức ghi lại nghĩa truyền bản tại địa phương mình, song chưa
vận dụng ngữ liệu đối sánh để lọc ra và bổ sung thêm những nghĩa đáng coi là gần
với nghĩa gốc hơn nghĩa vùng này vùng khác đang lưu hành.
– Ví dụ 3, bàn độc: “dt; 1. bàn
đọc sách của nhà nho thuở xưa (chó nhảy bàn độc); 2. loại bàn cao
và hẹp dùng để đồ thờ cúng” (tr.22, cột 1).
Các từ điển tiếng Việt từ thế kỷ XX trở lại đều có đủ hai
nghĩa như hai tác giả:
a) Việt Nam tự điển của Hội Khai trí Tiến đức
(Nhà in Trung bắc Tân văn, Hà Nội, 1931, tr.27, cột 2): “Bàn độc = Bàn
kê một mình để đọc sách, có khi dùng chung với bàn thờ: Hương án bàn độc”;
b) VNTĐLVĐ&LNT (1970, Q. thượng; tr.59, cột 1): “ Bàn
độc = Bàn kê để đọc sách // Bàn thờ”;
c) TĐHP (2003, tr.29, cột 2): “Bàn độc = 1.
Bàn để đọc sách; 2. Bàn để đồ thờ, bàn thờ”;
d) Riêng Từ điển từ và ngữ của Nguyễn Lân
(NXB Tổng hợp, TP HCM, 2000)có giảng thêm nghĩa thứ ba, song tựu trung nghĩa 2
và nghĩa 3 cũng gần là một: “Bàn độc = 1. Bàn nhà nho ngồi đọc
sách (cũ): Chó nhảy bàn độc (tng); 2. Bàn thờ: Hương
án bàn độc (tng); 3. Bàn bày đồ thờ người ta khiêng đi trong đám ma (cũ): Sau
đoàn câu đối thì là bốn năm cái bàn độc (Nguyễn Công Hoan)”(17).
Theo thứ tự, nghĩa “bàn đọc sách” được thống nhất xếp vào
nghĩa 1, ngầm ý nghĩa chính. Nhưng truy ngược lên những từ điển xuất hiện trước
thế kỷ XX, thì rất lạ, nghĩa chính ấy lại không có. Dẫn một cuốn in gần chạm đường
biên giữa hai thế kỷ là Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Của
(Imprimerie REY, CURIOL & Cie, Saigon, 1895, tr.30, cột 1): “Bàn
độc = “Ghế lễ lớn có bốn chân xếp, cũng là bàn dọn ăn”. Huình Tịnh
Của có gợi thêm chức năng “dọn ăn” của bàn độc song không ghi
nhận chức năng “đọc sách”. Bổ sung cho Huình Tịnh Của là chiếc “bàn độc” ở miền
Bắc trong bài thơ Đĩ cầu Nôm của Nguyễn Khuyến: “Đĩ mà có
tàn, có tán, có hương án, có bàn độc…”. Bàn
độc của nhà thơ họ Nguyễn tất không thể là “bàn đọc sách”, vì đám người
buôn son bán phấn chẳng phải nhà nho.
Phỏng đoán: nghĩa 1 kỳ thực chỉ do các nhà ngữ học hiện đại suy
luận từ chữ Hán (độc 獨 = một mình hoặc độc讀
= đọc). Đã suy luận thì chưa có gì chắc chắn. Đối với loại từ cổ
như bàn độc, muốn soi sáng đi đến thừa nhận hoặc loại trừ các lớp
nghĩa thời sau gán vào, phải vận dụng nhiều chứng cứ lịch sử, trong đó có “kiểm
tra chéo” giữa phong tục học với bằng chứng từ thành ngữ, tục ngữ, văn thơ, từ
điển (nghĩa là cần “trọng chứng hơn trọng cung”). a. Về phong
tục, xưa kia các gia đình người Việt với ngôi nhà ba gian, hoặc thêm hai
chái làm buồng ngủ, ngoài gian giữa đặt bàn thờ, một gian bên kê “tấm phản”,
gian bên đối diện đặt bộ “tràng kỷ” ngồi tiếp khách, có dùng thêm chiếc bàn nào
khác trong sinh hoạt, như chiếc bàn cho nhà nho ngồi đọc sách hay không? Phần
chắc không có. Tôi ngờ bàn đọc sách hiện đại dùng cho cá nhân (vừa tầm ngồi đi
kèm chiếc ghế có tựa lưng), mới nhập tịch từ phương Tây khoảng vài thập niên đầu
thế kỷ XX. Nhà nho thường nằm nghỉ và ngồi đọc sách nơi tấm phản, cũng thuận tiện
cả khi viết bút lông trên giấy khổ lớn, sách thánh hiền cất vào tủ nhỏ treo lên
nóc nhà; đối với một ít gia đình “dòng dõi thư hương” có thêm cái “án thư”
(cao, hẹp bề ngang và dài) để giấy bút và vài thứ đồ dùng lặt vặt liên quan (Trên
yên/án để sẵn con dao – Truyện Kiều), nhưng không để đọc
sách vì quá cao. Tại trường ĐH Quốc tử giám duy nhất ở kinh đô vào đầu thế kỷ
XIX cũng chỉ dùng phản mỗi khi có cuộc giảng sách bình văn (Vũ trung tùy bút –
Phạm Đình Hổ). Cho đến phiên chợ Tết vùng quê khoảng vài ba chục năm đầu thế kỷ
XX cũng còn phải khiêng phản ra chợ viết chữ bán câu đối tết (Một thầy khóa
gò lưng trên cánh phản / Tay mài nghiên hý hoáy viết thơ xuân –
Đoàn Văn Cừ, 1939). Nếu đã có thói quen dùng bàn thì đưa bàn ra chợ chắc nhẹ
nhàng hơn phản nhiều. b. Về chứng cứ chữ Nôm và chữ quốc ngữ,
phải nhắc đến học giả An Chi cách nay 12 năm từng tra tìm Từ điển Việt
– Bồ – La của Alexandre de Rhodes (Rome, 1651). Thay vì bàn độc,
ông tìm ra hai từ “bàn đạoc” và “bàn đọc” (đạoc theo An Chi cũng
phiên âm “đọc”, là hai từ đồng âm; thực ra có lẽ do de Rhodes ghi chữ đọc theo
phát âm kéo dài chữ o ở các vùng Nghệ Tĩnh và Quảng Nam Quảng Ngãi: đọc =
đoọc / mệt nhọc = mệt nhoọc / sạch bong = sạch
boong). Ở cột 22(18) (vần B) sách đó
viết: Bàn thờ, bàn đạoc = Oratorio,
Altar [tiếng Bồ]; Oratorium, Altare [tiếng Latin]; Ở
cột 226 (vần Đ), sách viết tiếp: Bàn đọc = Altar [tiếng
Bồ]; Altare, is [tiếng Latin]. Có được 2 cứ liệu mới mẻ về bàn
đọc, An Chi bèn cho rằng gọi bàn độc như ngày nay là nhầm
lẫn, tên chính xác của nó phải là “bàn đọc”, không phải bàn đọc sách như nhiều
người nghĩ, mà là bàn tụng kinh Phật cầu siêu cho người chết. Tuy vậy,
có một điểm cũng hơi khó hiểu trong cách ghi nghĩa tiếng Bồ và tiếng Latin của
A. de Rhodes, An Chi lại bỏ qua không để ý. Đó là A. de Rhodes hình như không
thật sự quan tâm đến nghĩa đặc trưng của chữ “bàn đọc” so với chữ “bàn thờ”.
Theo trật tự sắp xếp tại cột 22: tiếng Việt ghi “bàn thờ” trước,
“bàn đạoc” sau, lẽ ra tiếng Bồ và tiếng Latin cũng phải đặt hai chữ Altar và Altare (bàn
thờ) lên trước hai chữ Oratorio và Oratorium (bàn
cầu nguyện) mới tương ứng với tiếng Việt. Thế mà sách ghi ngược lại là bàn
thờ / bàn đạoc = 1. Tiếng Bồ: Oratorio (bàn
cầu nguyện); Altar (bàn thờ)/ 2.Tiếng
Latin: Oratorium (bàn cầu nguyện); Altare (bàn
thờ).
Tiếp đấy, tại cột 226: tiếng Việt chỉ có chữ
“bàn đọc” thì lẽ ra tiếng Bồ và tiếng Latin phải là Oratorio và Oratorium (bàn
cầu nguyện) mới đúng nghĩa, thế mà sách lại ghi Altar và Altare (bàn
thờ) là đọc, bàn đọc = 1. Tiếng Bồ: Altar (bàn
thờ); 2. Tiếng Latin: Altare (bàn thờ).
Vậy là sao? Sao “bàn đọc” lại là bàn thờ mà không phải là
bàn cầu nguyện? Liệu có phải đây là do ảnh hưởng của thói quen lưu cữu trong
dân gian: tuy vào thế kỷ XVII ở một số vùng (nhất là những vùng theo đạo Phật)
đã sinh thêm cái “bàn đọc” bên cạnh “bàn thờ” vốn có từ xưa, nhưng nghĩa nhập
tâm mà người dân nhớ và hiểu thì cả hai thứ bàn đều là bàn thờ cúng. Và trong
khi hành lễ, đến lúc phải khấn khứa, chắc người ta cũng làm luôn tại chỗ chứ chẳng
mấy ai rời bỏ “bàn thờ” đi sang “bàn đọc” cho thêm phiền phức(19).
Nếu căn cứ trên từ nguyên, An Chi vẫn có thể giải thích bàn đạoc/bàn đọc là
bàn tụng kinh niệm Phật như ông đã làm, nhưng từ đấy mà đi ngay đến kết luận bàn
đạoc/bàn đọc thế kỷ XVII chính là bàn độc thế kỷ XX
thì còn hơi vội(20). An Chi không nghĩ được khoảng cách từ A.
de Rhodes đến thời đương đại dài 4 thế kỷ, tiếng Việt còn nhiều dịch chuyển, chữ
quốc ngữ của de Rhodes cũng mới phôi thai chưa cố định được ngay. Chỉ cần lùi
xuống nửa cuối thế kỷ XVIII, tên “bàn đạoc/đọc” bất ngờ biến mất, tên bàn
độc đột ngột hiện ra. Trong bốn cuốn từ điển kế tiếp: 1773 (de
Behaine), 1838 (Taberd), 1877 (Caspar), 1898 (Génibrel), từ kép bàn độc có
đủ mặt ở cả bốn, không cuốn nào còn lưu lại từ “bàn đọc” hay “bàn đạoc”. Chữ “độc”
cũng chẳng phải biến âm từ “đọc” sang, trái lại là một chữ không có dây
mơ rễ má gì với “đọc”. Trong hai sách cùng tên Dictionarium
Anamitico-Latinum của Pignaux de Behaine (bản chép tay, 1773) và của
Jean Louis Taberd (bản in, 1838, cuốn sau thoát thai từ cuốn trước), bên cạnh
chữ bàn độc có in kèm cả chữ Nôm槃櫝. Đây thật sự là một
thông báo có tính bước ngoặt. Phần giải nghĩatiếng Latin nhấn mạnh hình dáng của bàn
độc là chiếc kệ nhỏ, cao, đặt hương và một số vật dụng tương tự (mensula
thuris rebusque id genus reponendis destinata) (Pignaux de Behaine, tr.10,
cột 1 / Taberd, tr.13, cột 1). Xét chữ Nôm 櫝độc nghĩa Hán là hộp,
tráp, hòm, tủ, làm tính từ cho槃bàn thì nghĩa sát nhất của槃櫝phải
là bàn gỗ hình dáng chiếc tủ cao và hẹp, cho nên giảng “kệ nhỏ cao”
có lẽ có một phần xác đáng (cả de Rhodes, de Behaine và Taberd đều chưa có mục
từ “tủ”, chắc đến giữa thế kỷ XIX dụng cụ này người Việt vẫn chưa thông dụng).
Hai soạn giả Lê Văn Thu và Nguyễn Hiền, không biết dựa vào đâu, cũng có cách giải
thích bàn độc trùng nghĩa chữ Nôm 槃櫝: “loại bàn cao và hẹp
dùng để đồ thờ cúng” (tr.22). Hai cuốn từ điển Việt-Pháp in tiếp sau Taberd
vài chục năm cũng ghi nhận bàn độc là bàn nhỏ thắp
hương thờ cúng: 1. Dictionnaire annamite-français của
J.M.J. Caspar, Nhà in Tân Định, 1877, tr.22: “Bàn độc = petit
autel” (bàn nhỏ thắp hương). 2. Dictionnaire anamite-français của
J.F.M. Génibrel, in lần thứ hai, Nhà in Tân Định, 1898, tr.17, cột 1: “Bàn độc,
bàn hương án = Autel des parfums” (bàn thờ thắp hương).
Tóm lại, từ các nghĩa tìm được vào thế kỷ XVIII và thế kỷ
XIX kết hợp với chữ Nôm bàn độc槃櫝 của P. de Behaine và Taberd, ta có
một bước cụ thể hóa hình dáng chiếc bàn mà câu thành ngữ “hương án bàn độc”
cho phép xác định đó là hai dụng cụ gần gũi: bàn độc hẹp và
cao như tủ nhỏ, chủ yếu bày hương và các lễ vật để thắp khấn vái lúc tế lễ, lúc
cần còn có thể khênh ra huyệt mộ. Nghĩa này phù hợp với nghĩa 2 trong sách của
Lê Văn Thu và Nguyễn Hiền. Riêng nghĩa 1 “bàn đọc sách”, hiện không có căn cứ
văn liệu nào về mối liên hệ bàn độc = bàn độc chữ
Hán(獨một
mình / 讀đọc
sách);cũng không có mối liên hệ bàn độc = bàn đạoc củaA.
de Rhodes, vậy các ông nên loại bỏ. Phải là loại bàn thờ cao và mặt bàn nhỏ hẹp
thì chó mới khó nhảy lên được, nên việc “chó nhảy bàn độc” là chuyện đảo điên
hiếm thấy, được ví với một kẻ tồi bại nhất thời nhảy tót lên địa vị cao sang.
Không phải do thói quen coi trọng sách vở nhà nho mà sinh ra câu này.
– Ví dụ 4, bách nghệ: “dt, các
nghề nghiệp, nói chung” (tr.18, cột 1). Giảng thế cũng đã xuôi nhưng nên
nghĩ: từ “bách nghệ” ngày nay không đâu còn dùng. Lần tìm về quá khứ, gần chứ
không quá xa, thì từ “bách nghệ” xuất hiện và gây ấn tượng trong dân Việt đầu
tiên khi người Pháp mở ra các trường Kỹ nghệ thực hành (Ecole pratique
d’industrie) dạy nhiều loại nghề thuộc bậc tiểu học ở nhiều tỉnh Đông Dương, đặc
biệt lấy hai chữ bách nghệ để gọi tên bằng tiếng Việt cho ngôi
trường này ở Huế (một ngôi trường rất nổi tiếng, cải tiến một bước từ ngôi trường
“bách công” do vua Thành Thái khởi xướng từ năm 1899 và lấy tên là Bách công kỹ
nghệ). Nên thêm một nghĩa cụ thể đó vào mục từ bách nghệ sẽ đầy
đủ hơn.
– Ví dụ 5, bản mường: “dt, như
bản làng (từ mường được dùng với ý coi thường người sắc tộc chưa văn minh)”
(tr.23, cột 1). Phần đặt trong ngoặc đơn e chưa ổn. Chữ “mường” vốn bắt nguồn từ
ngôn ngữ của chính dân tộc Mường thì sao lại có hàm ý coi thường được (coi thường
chính mình?) “Mường” là một danh từ chung chỉ một đơn vị cư
dân lớn hay nhỏ thuộc các vùng cao nguyên phía Bắc (TĐHP: “Mường: khu vực đất
đai ở một số vùng dân tộc thiểu số miền Bắc Việt Nam, tương đương với làng, xã
hay huyện, xưa là phạm vi cai quản của một chúa đất” (tr.653-654); xem thêm
Tô Hoài: Truyện Tây Bắc (1955)).
V-2 Về hình thức trình bày, cụ thể là lời văn
giải nghĩa
Đọc cuốn sách đang có trên tay ta thấm thía công phu của hai
tác giả bỏ vào ròng rã 12 năm. Nhiều mục từ tìm được để bổ sung đã rất quý mà
ngôn từ diễn đạt gọn ghẽ, bình dị, lắm khi còn thêm chút dí dỏm. Người soạn
không cốt làm văn nhưng câu văn tự đến theo yêu cầu của ngữ nghĩa. Mục từ ăn
lỡ, các ông giảng: “ăn giặm thêm giữa các bữa ăn chính (nghỉ tay để
ăn lỡ các bác thợ ơi)” (tr.9, cột 1). Mục từ bôi mép, giảng:
“nói đùa là được ăn ít quá, không bõ dính mép” (tr.57, cột 1). Mục bắt
rễ xâu chuỗi, giảng: “len lỏi vào thành phần bần cố nông (bắt rễ) để
tìm thêm nhiều phần tử tích cực khác (xâu chuỗi) phục vụ cho phong trào [CCRĐ]”
(tr.33, cột 2). Mục sẩy trôn, giảng: “vô ý đánh rắm mà
không nhịn lại kịp” (tr.853, cột 2); …
Tuy là vậy, cũng như phần nội dung trên kia đã nêu, những “tồn
tại” ở phần này cũng không phải ít, lại là những thiếu sót trong một chừng mực
nào có bắt ta liên tưởng đến quan điểm phương pháp luận của người biên soạn, do
chúng tập trung ở các quy tắc bất thành văn mà nhà từ điển ít khi dám coi nhẹ.
64 ví dụ dẫn ra đây (vẫn giới hạn trong vần B, có phụ thêm một
số ở vần A) nhóm lại trong 6 quy tắc cốt lõi, chưa
được tuân thủ đồng bộ, gây ấn tượng cộm nhất:
V-2-1 Quy tắc trốn chủ ngữ
Hai tác giả rất nhớ và sử dụng hình thức trốn chủ ngữ ở hầu
hết các mục từ, nhưng thỉnh thoảng vẫn có khi quên.
– Ví dụ 1, ấy chết: “tht (thán từ)
1. từ dùng để xin lỗi (Ấy chết xin ông thứ lỗi cho sự vô ý
của tôi) 2. Trách móc (Ấy chết, việc gì mà ông phải to tiếng thế!)”
(tr.14, cột 1). Bỏ chữ “từ”, nếu muốn rõ hơn thì thay bằng “tổ hợp”.
– Ví dụ 2, ấy thế mà: “tht; từ dùng
để chỉ điều xảy ra ngược lại một cách ngạc nhiên (tưởng rằng tiệm ăn đó đã đóng
cửa vì ế, ấy thế mà nó lại phất như diều gặp gió)” (tr.14, cột 2)
Thay chữ “từ” và câu văn cũng nên đảo lại: “tổ hợp đặt ở mệnh đề sau của câu
dùng để chỉ sự ngạc nhiên trước điều xảy ra ngược với dự đoán”.
– Ví dụ 3, bác: “dt; … 3. từ để
nói về người nào đó đã lớn tuổi (bác tài xế); 4. từ để
hai người bạn đã lớn tuổi gọi nhau dưới hình thức thay cho con mình (mời bác
qua tôi đánh chén chiều nay nhé!)” (tr.17, cột 2). Nghĩa 3: bỏ “từ để nói về”:
“cách gọi người nào đó đã tương đối lớn tuổi”. Nghĩa 4 viết gọn: “cách những
người bạn lớn tuổi gọi nhau”.
– Ví dụ 4, bìm bịp: “dt; (động) loài
chim giống như quạ, thường sống quanh các bụi cỏ, và phát ra tiếng kêu “bìm bịp”,
danh pháp Centropus sinensis Stephen (loại lớn) và C. benghalensis Gmelin (loại
nhỏ), cả hai loài đều có thân mình dài, đầu tròn múp, mỏ to nhọn, mắt tròn,
đuôi dài hơn cánh, bộ lông bìm bịp có màu đen huyền, trừ hai cánh có màu
nâu đỏ” (tr.47, cột 2). Bỏ “bìm bịp có” (trốn hẳn chữ “bìm bịp”).
V-2-2 Quy tắc lời văn không được sai ngữ pháp và
rườm, thừa thiếu hoặc lặp chữ.
– Ví dụ 1, bốc bải: “đt; lấy
bừa bằng tay cho xong việc mặc dù có đũa hay đồ gắp (ý nói không cầu kỳ, kiểu
cách)” (tr.56, cột 2). Phải thêm “thức ăn” vào sau “lấy bừa”.
– Ví dụ 2, bình cũ rượu mới: “thn; (bóng) hình
thức cũ, nội dung mới, giới văn học nghệ thuật đương đại dùng các khuôn mẫu có
sẵn từ thời xa xưa để lại để trước tác các tác phẩm hay nghệ phẩm của họ, để
các tác phẩm hay nghệ phẩm ấy tuy mang tính chất mới, phù hợp với xu hướng
đương thời nhưng vẫn không mất đi nền nếp cũ” (tr.48, cột 2). Câu rườm và
trùng lặp, vượt ngoài quy tắc viết từ điển. Gợi ý câu chỉnh lý: “hình thức cũ,
nội dung mới, ám chỉ một giai đoạn giao thời, hình thức chưa theo kịp nội dung,
người làm văn nghệ vẫn sử dụng các khuôn mẫu có sẵn để gửi vào đó nội dung tư
tưởng của thời đại mới”.
– Có khi viết ngắn vẫn bị thừa hoặc lặp chữ, nên tuy
ngắn mà không thoát rườm. Ví dụ 3, bóng rổ: “dt; môn
thể thao dùng tay đánh quả bóng vào rổ của đối phương, bên nào để quả bóng lọt
vào lưới của mình nhiều thì bị thua” (tr.53, cột 2). Gọi là bóng rổ nhưng
chữ “rổ” soi sáng cho “bóng” chưa giải thích. Một chữ sai (đánh: bóng rổ
là ném chứ không đánh), hai chữ gây nhầm lẫn (rổ và lưới),
và một chữ thừa (một chữ quả dưới). Nên sửa: “môn thể thao
dùng tay ném quả bóng vào rổ đối phương là một vòng đai sắt đường kính gấp đôi
quả bóng, có lưới hình ống bao xung quanh; bên nào để bóng lọt vào rổ của mình
nhiều hơn thì bị thua”.
– Ví dụ 4, ẩn sĩ: “người trí thức
học cao hiểu rộng nhưng không xuất sử làm quan” (tr.13, cột 1). Câu sai ngữ
pháp vì dùng sai chữ xuất xử (không phải “xuất sử”). Xuất
xử không phải là ra làm quan, mà “lúc ra làm quan lúc về ở ẩn”.
V-2-3 Quy tắc không lặp lại lời giải nghĩa
hai lần ở những từ đồng nghĩa.
– Ví dụ 1, hai từ ềnh, ìnhđược
coi là từ đồng nghĩa, vì tra “ềnh” có đề: ck (chữ khác) “ình”. Giảng:
“tt; tư thế nằm dài ra mà không đẹp mắt (nằm ềnh ra)” (tr.271, cột
2). Đến ình, lẽ ra chỉ cần nhắc: xem ềnh, là xong,
nhưng vẫn có lời giảng: “tt (ck ềnh); tư thế nằm dài và đưa
bụng ra (nằm ình ra)” (tr.369, cột 2). Thay vào 4 chữ “mà không đẹp mắt”,
là 4 chữ khác: “và đưa bụng ra”. Vậy là vừa trùng lặp vừa có thêm bớt.
– Ví dụ 2, hai từ bỏngvà phỏng vốn
chỉ là một từ, biến âm do cách đọc vùng miền; gặp từ này sách đều chú xem từ
kia. Đến bỏng rạ và phỏng rạ cũng là cùng một
từ hai cách đọc, nhưng lại có hai lời giảng, đều dài, giảng sau dài hơn giảng
trước. Bỏng rạ: “dt; còn gọi là bệnh trái rạ hay thủy
đậu, là loại bệnh do vi-rút gây ra khiến da phồng từng bọng nước nhỏ”
(tr.53, cột 2). Phỏng rạ: “dt; bệnh lây do nhiễm
siêu vi khuẩn varicella zoster, với việc nổi các mọng nước nhỏ trên da, nếu
không điều trị kịp thời có thể gây các biến chứng nguy hiểm” (tr.761, cột
2).
– Ví dụ 3, trong sách có 2 mục từ bá láp,
đặt cách xa nhau, và cũng kèm 2 lời giải. Bá láp 1: “tt; nhảm
nhí tầm phào” (tr.15, cột 2). Bá láp 2: “trt; tầm
bậy tầm bạ” (tr.16, cột 1).
Với cả 3 ví dụ vừa kể, nẩy sinh thắc mắc: có phải vì cẩu thả
hay lý do gì mà không bỏ bớt một mục từ và dồn hai câu giảng thành một?
V-2-4 Quy tắc giải thích từ cận nghĩa không được
làm mờ nghĩa, chồng nghĩa.
– Ví dụ 1, bán thuộc địa và thuộc
địa. So sánh nội dung hai câu không thấy khác nhiều lắm: Bán
th.đ. (tr.22, cột 1): “dt (chính trị); nước bị ngoại bang
thống trị và thâu lợi trong nhiều lĩnh vực quan trọng” / Th.đ. (tr.1007,
cột 1): “dt; nước hoặc một phần lãnh thổ của một nước bị nước khác chiếm
và cai trị (Anh quốc đã trao trả nền độc lập cho nhiều thuộc địa rất sớm)”.
Thậm chí, đem hai mục từ hoán đổi cho nhau, trong tâm trí bạn đọc cũng không
gây xáo trộn bao nhiêu. Chứng tỏ quy tắc giải thích từ cận nghĩa áp dụng vào
sách còn lỏng lẻo, chưa chú ý đúng mức yêu cầu gia tăng nét nghĩa khu biệt
trong từ cận nghĩa, bằng bổ sung ngữ nghĩa và cả phương
cách diễn đạt. Giữa hai mục từ đang xét, thuộc địa ít gây
hiểu lầm hơn, xin gợi ý viết lại từ bán thuộc địa: “Thể chế cai trị
không toàn phần của một nước áp đặt lên toàn bộ hoặc một phần lãnh thổ của nước
lệ thuộc, vẫn cho phép giữ nguyên chính quyền bản xứ, nhưng đưa thêm các quan
chức cùng cấp bậc của nước cai trị, danh nghĩa là “sứ quan”, đến cùng coi giữ, nhằm
gây ảnh hưởng chính trị và thu một phần nguồn lợi kinh tế”.
V-2-5 Quy tắc không dùng phương ngữ trong
câu văn giải nghĩa.
Phương ngữ là từ địa phương, phải được giải thích trong từ
điển mới thông nghĩa. Nay làm ngược lại, dùng phương ngữ giải nghĩa mục từ. Dẫn
7 ví dụ.
– Ví dụ 1, ba dẻm: “tt; tầm
phào, tầm ruồng, chuyện không đâu vào đâu (chuyện ba dẻm)” (tr.15, cột
1) [“tầm ruồng” = hư thân, mất nết, bậy bạ].
– Ví dụ 2, bay bướm: “1. Trông se
sua, lạ và đẹp (nét chữ bay bướm)…” (tr.30, cột 1) [“se sua” = làm dáng].
– Ví dụ 3, bợt: “dt; bờ
sông (anh ngồi côi bợt câu cá)” (tr.61, cột 1) [“côi bợt” = cô đơn trên bờ].
– Ví dụ 4, bùn sình: “bùn lẫn chất
thải rất dơ” (tr.63, cột 1) [“dơ” = bẩn].
– Ví dụ 5, quặc: “đt; máng
lên, móc vào (quặc chiếc mũ lên móc)” (tr.782, cột 1) [“máng” =
treo, móc]
– Ví dụ 6, làm một mách: “đt; chửi
mắng, xài xể một chặp” (tr.429, cột 2) [“xài xể” = rầy la, mắng nhiếc]
– Ví dụ 7, bòn bon: “dt (thực); loài
cây cao có lá kép lẻ, quả hình tròn với năm múi, có cơm ngọt, mọc
thành chùm trên một cuống dài (trái bòn bon)” (tr.52, cột 2) [“cơm” = cùi
thịt]
Câu hỏi chung: một từ điển ngữ nghĩa phổ thông có nên bắt độc
giả phải tra tìm nghĩa phương ngữ trước khi tra đến mục từ cần
tra cứu?
V-2-6 Quy tắc viết đúng chính tả trong câu
văn giải nghĩa.
Trên mục III đã nêu ưu điểm của phần mục
từ viết không sai chính tả s – x / d – gi – r / ch – tr,
giới hạn ở khảo sát 6 vần S, X, D, GI, R, CH, TR.
Đến đây, tiếp tục áp dụng khảo sát chính tả s – x / d – gi – r / ch – tr vào lời
văn giải nghĩa dành cho một vần B (có liên hệ đến vần A)
thì rất không ngờ, kết quả không lạc quan như trước. Xin dẫn 45 chỗ sai với
chính mục từ (m.t.) trong sách (đúng ra 49, nhưng một chỗ đã phân tích ở
ví dụ 4, mục V–2–2 nên không nhắc lại, ba chỗ nữa
tồn tại cả hai cách viết đúng và sai (“ăn dở” và ăn rở / “bập
bừng”và bập bùng / “giầm”(chèo) và dầm chèo), nên
loại ra không xét).
– Ví dụ 1, áo nậu: “áo bằng vải
đỏ… thường dành cho người cầm cờ hay đánh trống mặc trong các dịp rước sách cổ
truyền” (tr.5, cột 2) [m.t. tr.827: rước xách]
– Ví dụ 2, áoxổ gấu:“áo
tang để gấu còn xổ sợi vải” (tr.5, cột 2) [m.t. tr.871:
sổ gấu; sổ sợi vải]
– Ví dụ 3, ấm sứt vòi: “cái ấm bị
gãy mất vòi, ý chế diễu cậu ấm con quan hư hỏng…”
(tr.12, cột 1) [m.t. tr.108: chế giễu]
– Ví dụ 4, ẩn lánh: “chạy trốn đến
một nơi xa để ở nhằm dấu tung tích” (tr.13, cột
1) [m.t. tr.298: giấu]
– Ví dụ 5, ấp úng: “nói không
nên lời vì chưa tìm ra câu trả lời đúng hoặc vì muốn che dấu điều
gì” (tr.13, cột 1) [m.t. tr.106: che giấu]
– Ví dụ 6, ba gai: “ngang bướng
hay gây gỗ” (tr.15, cột 2) [m.t. tr.280:
gây gổ]
– Ví dụ 7, bả lả: “chớt nhã,
không nghiêm trang” (tr.17, cột 1) [m.t. tr.126: chớt
nhả]
– Ví dụ 8, bãi bồi: “bãi được tạo
nên do đất trôi theo giòng sông hay do cát biển tụ
lại” (tr.20, cột 1) [m.t. tr.190: dòng chảy]
– Ví dụ 9, bại lộ: “bị lộ, bị
phát hiện mặc dù cố giấu diếm” (tr.20, cột 1)
[m.t. tr.298: giấu giếm]
– Ví dụ 10, bại sản: “cơ nghiệp
tài sản mất cả (tán giabại sản)” (tr.20, cột
1) [m.t. tr.906: táng gia bại sản]
– Ví dụ 11, bản đồ: “bản vẽ hình
thế, đường xá của một địa phương…” (tr.23, cột
1) [m.t. tr.267: đường sá]
– Ví dụ 12, băng, nghĩa 2: “nhóm du thửdu
thực…” (tr.31, cột 1) [m.t. tr.193: du thủ du thực.
Huình Tịnh Của- Tục ngữ cổ ngữ gia ngôn: “du thủ du thực” nghĩa là
ăn chơi luông tuồng]
– Ví dụ 13, bánhsơ cua (tr.25,
cột 2) [m.t. tr.1255: xơ cua]
– Ví dụ 14, bặm trợn: “thích gây gỗ,
thô lỗ cục cằn…” (tr.31, cột 1) [m.t. tr.280: gây gổ]
– Ví dụ 15, bắt, nghĩa 3: “buộc
phải làm (bắt dơ tay lên)…” (tr.32, cột
2) [m.t. tr.304: giơ tay]
– Ví dụ 16, bẩn, nghĩa 1: “dơ
dáy, nhơ nhớp, dính bụi bậm…” (tr.34, cột 2) [m.t. tr.62:
bụi bặm]
– Ví dụ 17, bẫng: “(bước) hụt,
không tới (bước bẫng chân xuýt ngã)” (tr.35, cột
1) [m.t. tr.886: suýt ngã]
– Ví dụ 18, bập bùng, nghĩa
2: “(lửa cháy) mạnh và bốc cao lên từng chập”
(tr.35, cột 1) [m.t. tr.1151: từng chặp]
– Ví dụ 19, bất trị: “… không
còn dậy dỗ được nữa…” (tr.37, cột
1) [m.t. tr.175: dạy dỗ]
– Ví dụ 20, bẽ mặt: “ngượng
ngùng, xấu hổ trước mọi người vì bị người khác xỉ nhục hay
lật tẩy” (tr.39, cột 1) [m.t. tr.856: sỉ nhục]
– Ví dụ 21, bết, nghĩa 1: “dính
quá nhiều (giầy bết bùn)” (tr.42, cột 1) [m.t. tr.295:
giày]
– Ví dụ 22, bêu: “bày ra trước mắt
mọi người để chế diễu…” (tr.42, cột 2) [m.t. tr.108:
chế giễu]
– Ví dụ 23, bí quẫn: “không biểt xoay sở thế
nào để thoát ra hoàn cảnh cùng cực hiện nay được” (tr.43, cột 1) [m.t. tr.1250:
xoay xở]
– Ví dụ 24, biết tẩy: “biết rõ
chuyện hay ý đồ mà người ta cố dấu giếm…” (tr.46, cột
1) [m.t. tr.298: giấu giếm]
– Ví dụ 25, biểu quyết: “đồng ý
hay bác bỏ một đề nghị bằng cách dơ tay…” (tr.47, cột 1) [m.t. tr.304:
giơ tay]
– Ví dụ 26, bĩnh: “xón phân ra
tã…” (tr.49, cột 2) [m.t. tr.865: són cứt/ són đái]
– Ví dụ 27, bó rọ: “bị gò bó,
không xoay sở thoải mái được” (tr.50, cột
1) [m.t. tr.1250: xoay xở]
– Ví dụ 28, bóc trần: “lột cởi hết
ra, phơi bày hết những điều che dấu…” (tr.51, cột
2) [m.t. tr.106: che giấu]
– Ví dụ 29, bom na-pan: “… bom
gây cháy dữ dội bằng săng đặc” (tr.52, cột 1)
[m.t. tr.1234: xăng đặc]
– Ví dụ 30, bóp cò: “dùng ngón
tay chỏ bấm vào cò súng để bắn” (tr.54, cột
1) [m.t. tr.614: ngón tay trỏ/ngón trỏ]
– Ví dụ 31, bồ sứt cạp: “chê người
phụ nữ to béo xồ sề” (tr.55, cột 2) [m.t. tr.871:
sồ sề]
– Ví dụ 32, bổxấp bổ ngửa (tr.56,
cột 1) [m.t. tr.56: bổ xấp bổ ngửa/tr.850: sấp ngửa]
– Ví dụ 33, bồn bồn: “… lá
có hình dáng giống lá xả…” (tr.58, cột 2) [m.t. tr.831:
sả/lá sả]
– Ví dụ 34, bơ sữa bổ từ trên xuống, cuốc
sẻng bổ từ dưới lên (tr.59, cột 2) [m.t. tr.1241:
xẻng]
– Ví dụ 35, bơxờ (tr.60, cột
1) [m.t.: không có / viết đúng là bơ sờ]
– Ví dụ 36, bờm,nghĩa 2: “xổ sữa,
mập béo” (tr.60, cột 2) [m.t. tr.871: sổ sữa]
– Ví dụ 37, bớn: “rác rưởi (đường xá đầy
bùn)” (tr.61, cột 1) [m.t. tr.267: đường sá]
– Ví dụ 38, bụi đời: “lang
thang bương chải để tự kiếm sống” (tr.62, cột
2) [m.t. tr.67: bươn chải]
– Ví dụ 39, bủm: “tiếng phát ra
do đánh dắm…” (tr.62, cột 2) [m.t. tr.211:
đánh rắm]
– Ví dụ 40, buôn nước bọt: “(như
buôn hàng xách, nhưng với ý chế diễu)…” (tr.64, cột
1) [m.t. tr.108: chế giễu]
– Ví dụ 41, bưng bít: “bịt
kín, giấu diếm kín” (tr.66, cột 2)
[m.t. tr.298: giấu giếm]
– Ví dụ 42, bưng kín miệng bình:
“giấu diếm một việc gì bằng cách không nói ra cho ai biết”
(tr.66, cột 2) [m.t. tr.298: giấu giếm]
– Ví dụ 43, bưng mặt: “úp mặt
vào hai bàn tay để che dấu việc khóc lóc”
(tr.66, cột 2) [m.t. tr.106: che giấu]
– Ví dụ 44, bưng miệng, nghĩa 2: “đặt
một bàn tay lên miệng để che dấu nụ cười chế nhạo”
(tr. 66, cột 2) [m.t. tr.106: che giấu]
– Ví dụ 45, bứt đầu bứt tai:
“… (bứt đầu bứt tai mãi về chuyện đã để xổng mất
món hàng bở)” (tr.67, cột 2) [m.t. tr.874: sổng].
Mới chỉ vần B và một phần nhỏ vần A đã
bề bộn đến tưởng như… đụng đâu gặp đấy, nếu đọc cả cuốn sách thì số lượng còn lớn
đến thế nào. Thật khó lòng giải thích khi nhìn vào bảng danh mục đối chiếu,
cũng vẫn 45 từ ngữ sai chính tả ở lời văn giải nghĩa, ở vị
trí mục từ lại tuyệt đối không sai. Sự “tréo ngoe” đập vào mắt
ngay giữa hai phần liên quan khăng khít trong cùng một cuốn sách, một bên
là nhân một bên là quả không thể tách rời,
khiến người đọc sách cơ hồ “mất định hướng”, vừa mừng rỡ bắt gặp được “cái đúng”
ở bên này đã phải sững sờ không tin vào mắt mình khi lật sang bên kia lập tức
hiện ngay “cái không đúng”. Tôi đã vất vả kiếm tìm một phương án khả dĩ hợp lý
giải đáp cho câu hỏi: vì sao lại bất nhất lạ lùng như vậy, đến nay mới tìm ra.
Tìm ra mà vẫn nửa yên tâm nửa… cứ còn thấp thỏm. Phải chăng hai nhà biên khảo
khởi công soạn cuốn sách với tinh thần “làm khoa học” nghiêm túc, nên từ công
đoạn xác lập mục từ, cần giải quyết chính tả cho khối lượng mục từ
dễ sai nhất, các ông đã để tâm tham khảo cách viết của các bộ từ điển trước
mình, trong đó gần gũi thời điểm chấp bút là Từ điển tiếng Việt của
Hoàng Phê, xa hơn ít nữa thì Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức
và Lê Ngọc Trụ(21). Hai ông rất thành ý tiếp thu hai sách đó
và nhiều từ điển khác nữa nên tỷ lệ mục từ sai sót hạn chế đến
tối thiểu. Nhưng rồi đến công đoạn giải nghĩa mục từ, do phải tranh
thủ làm thêm ngoài công việc chuyên môn, các ông bắt tay vào viết soạn bất kể
ngày đêm theo thôi thúc của cảm hứng, cứ thế “thả lỏng dây cương” viết
theo quán tính viết tiếng Việt hàng ngày, đâm ra chính tả đúng sai
chẳng còn cái “thắng/phanh” nào hãm lại… Chỉ hai câu thơ của một trong hai người
đặt vào trích dẫn cũng đã mách bảo với chúng ta nguồn gốc “nội tại” của hiện tượng
sai chính tả dày đặc nói đây, quyết không phải là do tham khảo những sách từ điển
không đáng tin cậy mà dẫn đến hậu quả: “Dẫu cho hai ngả phân ly / Còn
duyên còn nợ xá gì tháng năm” (tr.142) [xá
gì / sá gì].
***
Kinh nghiệm cho biết, không có cuốn sách từ điển nào biên soạn
một lần mà toàn bích cả. Đối với những công trình từ điển ngôn ngữ học của một
dân tộc đang mở rộng địa bàn cư trú ra thế giới thì yêu cầu phát triển tự thân
của chính đối tượng sẽ sớm vượt lên thành tựu mà những sách đó ghi dấu ở từng
thời điểm nhất định. Thành quả của Từ điển Việt ngữ phổ thông, rồi
đây qua cọ xát với đông đảo độc giả và giám định của các nhà ngôn ngữ học, sẽ
được công luận xếp đúng thứ hạng trên bậc thang giá trị. Còn những sai sót? Một
mặt, nghĩ cho cùng vẫn là khó tránh, không thể tránh. Mặt khác, nhìn theo hướng
tích cực, cũng là lý do mở một cơ hội mới để cùng hướng đến tương lai. Chính vì
còn sai và sót, hai tác giả thế nào cũng sớm bắt tay tra soát, sửa chữa – nói
như một phương ngữ miền Nam đang có mặt trong từ điển: “nong lòng” mà sửa.
Sao cho trong vòng dăm bảy năm tới, lại sẽ có tiếp một bản in khác, mãn ý
hơn. Những gì còn sai sẽ được loại bỏ, còn sót sẽ đưa vào. Đặc biệt (và điều
này mới là đáng ước mơ), những mục từ mới sinh thành trên bước đường người Việt
giao lưu khắp năm châu bốn biển trong 50 năm qua, thế nào mà chẳng có, sẽ được
lượm lặt, thâu nạp. Mới đầu là phương ngữ của một vùng miền nhỏ hẹp như
California, Houston…, trải qua nhiều giao tiếp, sàng lọc, sớm muộn chúng sẽ phổ
biến, đến tay các cộng đồng nói tiếng Việt ở khắp mọi phương, từ Mỹ sang Âu
Châu, sang Úc Châu, v.v., và quan trọng nữa là từ hải ngoại truyền về hải nội,
góp thêm vốn liếng vào kho tiếng Việt chung của người Việt hôm nay và ngày mai.
Phải có chúng và dùng chúng như một thứ của ăn của để thường
xuyên thì người Việt mới tiếp tục hiện hữu và sinh sôi
nẩy nở (“Truyện Kiều còn tiếng ta còn. Tiếng ta còn nước
ta còn” – Phạm Quỳnh).
Đó cũng là lời nhắn gửi tha thiết sau cùng của người viết
bài này.
(Hull, MA, USA, hoàn thành lần đầu 23.10.2023; chỉnh lý
ngày 30-12-2024; hoàn thành trọn vẹn ngày 15-6-2025).
Nguyễn Huệ Chi
_________
(1) Sách in tại Đài Loan vào giữa năm 2023.
Bác sĩ Lê Văn Thu sinh năm 1945, tại huyện Bình Lục tỉnh
Hà Nam, đậu Bác sĩ Y khoa SG 1973. Vượt biển sang Hoa Kỳ từ 1980, tiếp tục hành
nghề y từ 1984, điều hành Hội Văn hóa Lạc Việt Tacoma từ cuối thập niên 1980.
Hiện cư trú tại TP Tacoma, Hoa Kỳ.
Dược sĩ Nguyễn Hiền sinh năm 1951 tại Huế, tốt nghiệp ĐH
Dược khoa SG 1973. Vượt biển sang Hà Lan năm 1980, lấy tiếp bằng Dược sĩ ở
Hà Lan 1987, tiếp tục hành nghề dược đồng thời làm báo, viết truyện ngắn. Hiện
cư trú tại tỉnh Utrecht, Hà Lan.
(2) Người viết được tặng sách vào cuối tháng Chín năm 2023,
lúc sách vừa xuất bản được hơn một tháng. Bài viết hoàn thành sau một tháng, đã
gửi bản chép tay đến hai tác giả nhưng đến nay sau hơn một năm hai tháng chúng
tôi mới đăng công khai trên báo chí. Nhân đây xin chân thành cảm ơn hai tác giả,
đặc biệt xin cảm ơn BS Trần Văn Tích là người đầu tiên nối kết mối quan hệ giữa
hai vị soạn sách với tôi, để có được bài này.
(3) Cuốn sách được biên soạn trong rất nhiều năm, ban đầu chỉ
mới là Tập I của một bộ Từ điển tiếng Việt phổ thông khổ lớn gồm
ba vần A, B, C, do Hoàng Phê, Trưởng phòng Ngôn ngữ học thuộc Viện Văn học chủ
biên, NXB Khoa học xã hội in vào năm 1975. Về sau bổ sung dần và in đi in lại
nhiều lần, đến năm 2003 là lần in thứ 9 bởi NXB Đà Nẵng, cũng là lần in hoàn
thiện nhất khi GS Hoàng Phê còn sống.
(4) Xin xem: Trần Văn Tích: Từ điển tiếng Việt.
Tạp chí Văn học mới (in tại California, Hoa Kỳ, phát hành hai
tháng một số, ở nhiều nước từ Mỹ đến Canada, Paris, Germany), số 27 (năm thứ
VI); tháng 10.2023; tr.26-38.
(5) Cá nhân tôi, ngay khi viết bài này vẫn đinh ninh từ dây
rợ xác đáng hơn dây dợ, vì thành tố “dợ” là phần láy không
có nghĩa, trong khi “rợ” cũng như “nhợ” nghĩa là dây. Nhưng khảo sát từ điển
Taberd (1838), Huình Tịnh Của (1895), Génibrel (1898), đều có dây nhợ mà
không có dây rợ. Đến Khai trí Tiến đức (1931), Lê Văn Đức (1970),
không có cả dây nhợ và dây rợ. Đến Hoàng Phê
(2003) không có dây nhợ và dây rợ mà có dây
dợ. Hoàng Phê đã chọn từ theo tỷ lệ trên sách vở báo chí dựa vào 3 triệu 30
nghìn phiếu điều tra suốt thế kỷ XX, mà không có dây rợ. Bởi vậy
đành phải gạt bỏ định kiến cũ trong tiềm thức của mình, chấp nhận dây dợ.
(6) Do đếm một lần nên có thể có sai số nhưng chắc không nhiều.
(7) a. Trong cả 6 vần S, X, D, R, CH, TR có
160 mục, tạm xếp vào hai loại phương ngữ và từ cổ,
rất ít gặp hoặc chưa bao giờ gặp ở đâu, không có từ viết chuẩn để so sánh, nên
không thể xem là viết sai chính tả: “sồng sềnh”, “xắc xói”, “xăn xéo”, “xăng bồng”,
“xăng văng”, “xăng việc”, “xăng xít”, “xằng xịu”, “xắp xanh”, “xắp thời”, “xâm
việt”, “xâm xoàng”, “xấm xuất”, “xân xẩn”, “xấn vấn”, “xẩn bẩn”, “xẩn vẩn”, “xấp
xải”, “xập lết”, “xập xám”, “xập xỏa”, xấu xỉnh”, “xẩu mình”, “xây bồ bồ”, “xây
chầu”, “xây chừng”, “xây dùng”, “xây-lũ-cố”, “xây mâm trầu”, “xây trầu”, “xé
pho”, “xé tét”, “xé tẹt”, “xẽo”, “xềm xệp”, “xến”, “xển”, “xển lưng”, “xện”, “xếnh
xáng”, “xếp tó”, “xếu xáo”, “xếu xệu”, “xều”, “xệu xạo”, “xi kên”, “xi mên”,
“xí xái”, “xì dách”, “xì đùng”, “xì thẩu”, “xì xằng”, “xì xò”, “xì xục”, “xỉ
lãnh”, “xỉ lô”, “xỉ luân”, “xỉ thống”, “xìa bỉu”, “xích hầu”, “xích lỵ”, xích
phê”, “xích thân” “xích trục”, “xiêm lo”, “xiên xáo”, “xiển cứu”, “xiển u”,
“xim”, “xính xái”, “xịp”, “xíu bè”, “xìu xìu ển ển”, “xỉu xỉu”, “xo lo”, “xo
xe”, “xò ke”, “xò trân”, “xò xè”, “xỏ lụi”, “xỏ mé”, “xõ”, “xọ”, “xoa mị”,
“xoác”, “xoải”, “xoạng”, “xoi xoi”, “xom”, “xon xón”, “xon xỏn”, “xong cảy”,
“xong xạy”, “xong xóng”, “xong xỏng”, “xốc xả”, “xốc xổ”, “xốc xốc”, “xổn xảng”,
“xộp xạp”, “xơ vơ xính vính”, “xơ vơ xửng vửng”, xở việc”, “xở xuất”, “xơm”, xờm”,
“xờm xợp”, “xởm”, “xơn”, “xớn”, “xởn”, xởn đầu”, “xợt”, “xu não”, “xu phong”,
“xu trục”, “xú xí”, “xủ”, “xủ phụ”, “xủ tiết”, “xủ quẻ”, “xũ”, “xụ xợp”, “xuẩn
bát”, “xuẩn tài”, “xuẩn vật”, xuất mộc”, “xuất nhân”, “xuất phẩm”, “xuất sản”,
“xuất sở”, “xuất tiến”, “xúc hứng”, “xúc ngôn”, “xúc mục”, “xúc ngôn”, “xúc tất”,
“xuê”, “xuê xang”, “xủi xủi”, “xủn”, “xung phạm”, “xung quyết”, “xuộc”, “xuôi
câu”, “xuôi cò”, “xuôi rót”, “xuống nái”, “xuyên tư”, “xuyên tỵ”, “xuyên xà”,
“xuyết âm”, “xuýt nợ”, “xứ đế”, “xử vị”, “xưng bao”, “xưng cử”, “xứng xái”, “xừng”,
“xười”. b. Lại có 27 từ sai chính tả được trình ra theo cách mở
ngoặc viết thêm từ chuẩn chính tả ngay bên cạnh (từ chuẩn chính tả cũng có mặt
đầy đủ trong sách dưới dạng mục từ). Có thể hiểu không phải tác giả viết sai,
trái lại hai ông xem như đây là những phương ngữ mình bắt gặp đó đây và thu nạp
vào sách: “chèm nhèm” (kèm nhèm), “diệu võ dương oai” (diễu võ dương
oai), “rào rạu” (rào giậu), “rấn thân” (dấn thân), “rẫy chết”
(giẫy chết), “ròn rã” (giòn giã), “rong rỏng” (dong dỏng),
“sốc nổi” (xốc nổi), “sẻng” (xẻng), “siển cận” (thiển cận),
“xiếu mai” (phiếu mai), “xiếu mẫu” (phiếu mẫu), “xổ gấu” (sổ gấu),
“chờ trực” (chờ chực), “trành hanh” (đành hanh), “tría lia” (tía
lia), “xăm xoi” (săm soi), “xắm nắm” (sắm nắm), “xếch xác” (xệch
xạc), “xốn xác” (xớn xác), “xớ lợ” (thớ lợ), “xờ” (trờ),
“xở rối” (gỡ rối), “xúc siểm” (xúc xiểm), “xục xạo” (sục sạo),
“xục xịch” (xộc xệch), “xuýt xoát” (suýt soát). c.
Ngoài ra còn có từ “xổ xố” và “xổ xố lô tô” ở trang 1253 cũng không thể kết luận
viết sai, vì cũng ngay trong mấy dòng giải thích hai mục từ này các tác giả viết
“quay số”, “bốc số”, “xổ số” và tất cả những chữ “số” khác đều viết đúng là “số”.
(8), (9) Trong bài Ngôn ngữ bình dân của Sài Gòn và
người miền Nam của Kỳ Thanh trên Nghiên Cứu Lịch Sử (hải
ngoại, báo mạng) ngày 24.4.2023, có câu: “Diễn hành, diễn binh = diễu hành,
diễu binh (chữ ‘diễu’ bây giờ dùng không chính xác, thật ra là “diễn”
mới đúng)”. Chúng tôi đã khảo sát một số trang báo hải ngoại, cả báo mạng
và báo giấy, thì nhận ra hai chữ “diễn hành” và “diễn binh” chỉ tồn tại ở các
báo tiếng Việt tại Mỹ như Người Việt, Calitoday… Báo tiếng Việt
thuộc các nước ngoài Mỹ đều viết “diễu hành” và “diễu binh”. Ngay một trang
như VOA tiếng Việt có viết “diễn hành”, “diễn binh” nhưng lại
cũng viết cả “diễu hành”, “diễu binh”. Vài ví dụ: VOA ngày
17.4.2023 viết (đầu đề): Diễn hành Hoa anh đào ở thủ đô Mỹ; ngày
13.2.2024 viết (đầu đề): Diễn hành Tết Giáp Thìn ở
Little Saigon;… Nhưng cũng báo ấy, ngày 22.11.2012 lại viết (đầu đề): Cuộc diễu hành
ngày Lễ Tạ Ơn ở New Yor; và trong bài Lễ Lao động 2021 (6.9.2021)
cũngviết: “công nhân Thành phố New York đã nghỉ không lương và diễu hành”;
bài gần đây (21.3.2024) tiếp tục viết (đầu đề): Bộ trưởng Thể thao
Pháp: với lệnh cấm diễu hành tại Olympics… Về từ “diễu
binh” ngày 18.8.2018 VOA viết (đầu đề): Vì sao Trump
không thể diễn binh như mong muốn? Nhưng trước đó
ngày14.7.2017 lại viết (đầu đề): Diễu binh Mỹ có thể tốn hơn 90 triệu
đôla; ngày 8.2.2018 cũng viết (đầu đề): Triều Tiên diễu binh
trước ngày khai mạc Thế vận hội; và gần đây nhấtngày 21.12.2024 vẫn viết (đầu
đề): Mỹ bỏ kế hoạch diễu binh tốn kém. V.v.
(10) Người viết bài này cũng là một thành viên Ban văn học Cổ
cận đại Viện Văn học từ ngày 5.1.1961 nên có may mắn được chứng kiến việc làm
phiếu tra cứu của Nhóm từ điển Hoàng Phê.
(11) Trần Văn Tích. Từ điển tiếng Việt. Bđd, tr.
35 – 37.
(12) Xin xem: Sai sót trong “Từ điển chính tả tiếng Việt” của
GS.TS Nguyễn Văn Khang (Kỳ 1), Hoàng
Tuấn Công
Sai sót trong “Từ điển chính tả tiếng Việt” của GS.TS Nguyễn
Văn Khang (Kỳ 2), Hoàng
Tuấn Công
Sai sót trong “Từ điển chính tả tiếng Việt” của GS.TS Nguyễn
Văn Khang (Kỳ 3), Hoàng
Tuấn Công
(13) Có lẽ chữ phổ thông vốn là “bồ quân”, tên gọi một loại
quả vỏ màu nâu, nhỏ như quả mơ, khi chín chuyển sang đen, ăn ngọt pha vị chát.
(14) Imprimerie & Librairie Nouvelles Claude & Cie,
Sài Gòn, 1896.
(15) Không tính thành ngữ mới, trong kho thành ngữ cổ Hán ngữ
Trung Quốc chỉ mới tìm thấy câu 算盡錙銖Toán tận tri thù chỉ
người keo kiệt, tính toán đến từng đồng xu cắc bạc (tri và thù là
hai đơn vị đo lường cực nhỏ thời xưa).
(16) Trong sách Từ điển Truyện Kiều in lần
thứ hai, l986, tr.40, có chú thích về mục từ bài bây (từ câu
thơ “Lão kia có giở bài bây”), cho rằng từ này ảnh hưởng Mon Khmer. Cụ
thể viết: “Từ gốc Khơme pai là cẩu thả, plây là
hư hỏng, bài bây do đó có nghĩa là xấu xa”. Đây thực ra là chú
thích thêm của GS Phan Ngọc trong lần in 1986 (lần in đầu do NXB Khoa học Xã hội,
1974). Chúng tôi có hơi băn khoăn đây chưa chắc đã ảnh hưởng từ ngôn ngữ Mon
Khmer mà rất có thể là một trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng cứ xin dẫn ra để bạn đọc
tham khảo (Xin cảm ơn học giả Đỗ Quý Toàn đã mách cho chú dẫn này).
(17) Chúng tôi hiện không có cuốn từ điển của Nguyễn Lân
trong tay nhưng lại tìm thấy định nghĩa từ “bàn độc” của tác giả trên mạng.
Xem:
https://chunom.net/Tu-dien/Tu-ban-doc-co-y-nghia-gi-2853.html.
Một nhận xét nhỏ về định nghĩa này: ông Nguyễn Lân đã rất cố
gắng tìm chứng cứ từ thành ngữ và sách vở để soi sáng kiến giải của mình, nhưng
rất tiếc ông dẫn thành ngữ lại hơi tùy tiện, chẳng hạn, ông viết: “Bàn độc =
1. Bàn nhà nho ngồi đọc sách (cũ): Chó nhảy bàn độc (tng)”.
Không ai hiểu mối liên hệ giữa “bàn nhà nho ngồi đọc sách” và “chó nhảy bàn độc”
ở đây là thế nào.
(18) Bản in Từ điển Việt – Bồ – La 1651
không in số trang mà in số cột, mỗi trang gồm 2 cột.
(19) Theo PGSTS Hoàng Dũng, có đọc kỹ mới thấy cách trình
bày lời diễn giải trong cuốn Từ điển Việt – Bồ – La của
Alexandre de Rhodes khá lộn xộn, không hẳn đã theo một trật tự khoa học như
chúng tôi nghĩ.
(20) Nguyên câu của An Chi là: “Vậy đây là bàn đọc chứ không
phải “bàn độc” vẫn biết rằng đọc chẳng qua cũng chỉ là một biến
thể ngữ âm của độc, có nghĩa là xướng lên thành tiếng thành lời những
điều đã được viết sẵn, in sẵn. Và bàn đọc chính là bàn tụng
(hiện nay nhiều người vẫn còn dùng hai tiếng này), tức là cái bàn mà người ta đặt
trước đầu quan tài, trên đó có bày hoa quả, trà rượu, lư hương, chân đèn… áp đầu
quan tài có khung treo hình Phật, nơi nhà sư (hoặc thầy cúng) đặt lễ khí để gõ
mõ tụng kinh mà cầu siêu cho người chết. Trong quá trình chuyển nghĩa của từ tổ
đang xét, nghĩa gốc của nó lu mờ dần và mất đi. Bàn đọc đã được
hiểu thành bàn cúng nói chung rồi với nghĩa này nó lại chuyển nghĩa thêm một lần
nữa để chỉ cái bàn thờ (cái bàn cúng không nhất thiết là bàn thờ). Đây chính là
nghĩa hiện hành được cho trong từ điển”. (https://dongtac.hncity.org/spip.php?article5146)
(21) Bộ sách này lấy Từ điển chính tả của
Lê Ngọc Trụ làm căn cứ, nhưng thật tình cũng chưa giải quyết chính tả một cách
triệt để.
No comments:
Post a Comment