Saturday, April 6, 2024

 

Tản mạn quanh việc đi tìm chữ

cho cuốn Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông

 

(Bài đã được đăng trong Tập san Y Sĩ số 231, phát hành tại Montreal, Canada)

 

BS Lê Văn Thu

 

Tìm chữ và nghĩa vốn là mối bận tâm hàng đầu của người biên soạn từ điển. Tra cứu chữ trong các từ điển có uy tín đã xuất bản, đọc các sách văn học, coi bài viết trên báo chí, xem các biểu ngữ hoặc quảng cáo trên các tiệm hay các con đường mà mình đi qua, tò mò liếc mắt trên các bích chương của các hội nghị được treo trong các hội trường hay tiền sảnh của khách sạn, và lắng nghe bà con nói chuyện ngoài đời, hay qua các lời thoại trong các màn kịch, phim truyện trên đài, người viết phải chú ý, ghi lại, tìm hiểu ý nghĩa của mỗi từ, mỗi câu, thậm chí còn phải ghi nhận cả hoàn cảnh mà từ ngữ ấy được dùng, để mong từ điển mà mình biên soạn sẽ được đầy đủ với các từ ngữ vừa mang tính phổ thông, vừa chính xác và đáng tin cậy.

Khi còn ở trong trại cải tạo, người viết cũng lắng nghe đài và đọc báo chí của phe đang giam cầm mình để thấy câu nào, từ nào họ dùng đúng, chỗ nào họ dùng sai. Nếu sai thì cái sai ấy là có tính hệ thống hay chỉ là do người cán bộ không có trình độ sử dụng. Khi được phóng thích, người viết có dịp vào lại thư viện Trường Y khoa Sài Gòn của mình, lôi một số sách chuyên môn của giới Y khoa miền Bắc ra đọc thì thấy họ dùng từ y khoa khá chuẩn. Trong lúc ở miền Nam, lúc ấy, các giáo sư Nguyễn Hữu, Trần Anh, Ngô Gia Hy, Đào Hữu Anh, Trần Văn Bảng, Nguyễn Đình Cát mới bước đầu thành lập ‘Uỷ ban Dịch thuật danh từ y khoa’ và bảo trợ các sinh viên làm luận án tốt nghiệp dịch từ các cuốn sách giáo khoa bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp sang tiếng Việt với mục đích phục vụ cho nhu cầu chuyển ngữ trên.

Trong lúc lượm lặt rồi ghi chép và tìm hiểu ý nghĩa của các từ, cụm từ, thành ngữ, tục ngữ, v.v., để chuẩn bị đưa vào cuốn từ điển mà mình đang ấp ủ cũng đã gặp được nhiều điều thú vị. Vì thế, dù phải ‘thai nghén’ tới 12 năm mà ‘thai phụ’ vẫn lúc nào cũng thấy vui và không nản chí!

Trong trại cải tạo trên núi rừng Hiệp Đức miền Trung, chúng tôi để ý thấy họ có biểu ngữ ‘muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa’, phân tích ra thì thấy Chủ nghĩa xã hội là danh từ, còn xã hội chủ nghĩa là tính từ bổ nghĩa cho danh từ kép ‘con người’. Còn người quốc gia ở miền Nam, trước đây và ngay cả bây giờ, thường cho rằng hai từ ấy là một, không phân biệt danh từ hay tính từ, dùng thế nào cũng được (TĐVNPT trang 127 và 1228).

Tại Việt Nam, trong lần về thăm gia đình cuối năm 2022, chúng tôi đã lượm được từ bề bềphở nầm trên các bảng quảng cáo của các tiệm ăn ở Hà Nội, chúng tôi không ngần ngại hỏi nghĩa của các từ trên và được các cháu cũng như người lái xe giảng giải. Để bảo đảm mình hiểu đúng, chúng tôi tra thêm trên mạng (Mr. Google): bề bề là tên khác của con tôm tích (TĐVNPT trang 40); còn nầm (TĐVNPT trang 573, nghĩa 2) là phần gồm mô mỡ và tuyến sữa nằm dưới vú các con lợn, dê, bò cái, v.v., được người Hà Nội (và hình như chỉ có ở Hà Nội) dùng để nấu món “phở nầm” đặc biệt.

Khi đến Phú Quốc, chúng tôi được một cháu gái gốc Hà Nội, bạn của con gái chúng tôi, tặng câu thành ngữ ‘bơ sữa bổ từ trên xuống, cuốc sẻng (cv xẻng) bổ từ dưới lên’ khi biết chúng tôi đang biên soạn từ điển; câu này chưa từng có trong bất cứ cuốn từ điển nào xuất bản ở trong nước. Ngay lúc ấy, chúng tôi đã thấy hai động từ BỔ ở đây hẳn có nghĩa khác nhau. Qua một đêm suy nghĩ, hôm sau gặp lại cháu, tôi giải thích động từ bổ ở vế đầu là ‘bơ sữa là để dành bồi bổ cho những kẻ có quyền cao chức trọng, thuộc giai cấp trên’, còn bổ ở vế sau là ‘dùng cuốc sẻng bổ (sới) đất lên để trồng trọt, là công việc của đám dân đen ở giai cấp dưới’; câu này đầy tính mỉa mai (TĐVNPT trang 59).

Trên tường một tiền sảnh của một khách sạn tại Trung tâm Sài Gòn, chúng tôi thấy một biểu ngữ dùng cho một buổi hội thảo chuyên đề trước đó mấy ngày có cụm từ cổng thông tin điện tử, chúng tôi bèn hỏi ông Google thì ổng chỉ cho thấy nhiều cổng thông tin điện tử khác, đi vào đủ các ngõ ngách của các tổ chức, từ các cơ quan, tổ chức hành chính của chính quyền, tới các trang mạng của các tổ chức thương mại, dịch vụ, v.v., không những ở trong nước mà còn ở các quốc gia khác (TĐVNPT trang 150). Từ cụm từ cổng thông tin điện tử này (dịch từ portal, tiếng Anh), chúng tôi còn tìm được các cụm từ khác như cổng kết nối kinh doanh, cổng dịch vụ công (TĐVNPT trang 150).

Khi vào một tiệm buôn bán thiết bị điện tử để mua một cái thiết bị tiếp hợp (adaptor) giữa điện thoại di động và ổ chứa dữ liệu di động (usb drive) loại mới thì được các em bán hàng chỉ cho cái gọi là cổng chuyển, tức ‘usb hub’ trong tiếng Anh (TĐVNPT trang 150). Cái usb hub này cũng được cộng đồng mạng dịch là bộ chuyển đổi, cái nắn điện, vi bộ thích, bộ khớp nối, bộ phận nối. Người viết chọn từ cổng chuyển vì thấy nó có vẻ đơn giản, dễ hình dung ra cái chức năng của nó.

Khi coi các chương trình truyền hình ở trong nước, người ta thấy giờ bắt đầu một (show, tiếng Anh; TĐVNPT trang 868) được ghi bằng ký hiệu h, thí dụ 20h30, thay vì 20g30. Quả thật, đây là một điều lạ lùng vì trong tiếng Việt không hề có từ nào bắt đầu bằng h để chỉ giờ. Người viết cố đi tìm ký hiệu quốc tế để xem h có thay cho giờ được không, thì không thấy. Tiếng Anh thì phải là 8:30pm. Cuối cùng chỉ còn nghĩ rằng h thay cho heures trong tiếng Pháp: 20h30. Thử hỏi, cả trăm triệu người Việt ở trong nước có được bao nhiêu người biết tiếng Pháp? Nhìn vào 20h30, mấy ai hiểu được nó là cái gì, có chăng chỉ gợi nhớ lại thời nước mình thuộc Pháp, một tàn tích nô lệ thực dân (TĐVNPT trang 272)!

Trong các phim trên truyền hình hoặc tin tức trên báo chí về các vụ án dân sự hay hình sự, phải vác chiếu ra toà, người bị xâm hại hay bị thiệt hại được gọi là bị hại (không có từ người đứng trước), người bị thưa kiện được gọi là bị kiện. Người viết nghĩ các từ này được dùng không chuẩn vì cả hai từ ấy chỉ là động từ thụ động thể, không phải là danh từ chỉ người bị hại hay người bị kiện. Trong kho từ ngữ Việt, mình đã có các danh từ bị cáo (người bị tố cáo), hoặc bị đơn (người bị kiện), và nạn nhân (người bị tai nạn hay bị người khác làm hại), rất rõ nghĩa và được dùng phổ biến trong nhiều thời, sao không dùng? Trong từ điển của nhóm Hoàng Phê cũng có các từ bị cáo, bị đơn, nạn nhân mà không hề có các từ bị hại hay bị kiện.

Có một số từ được dùng trong nước rất thoải mái nhưng lại bị đồng bào tị nạn cho là từ của ‘Việt Cộng’, không muốn dùng, như từ bức xúc chẳng hạn. Tra trong Từ điển ĐDA thì có từ xúc bức được giải nghĩa là cấp bức, có nghĩa là gấp, ngặt, không trì hoãn được. Xét về cảnh ngữ, tại quốc nội, người ta hay dùng từ này trong những tình huống gây bực bội, uất ức, khó chịu, bực dọc cho những người bàng quan trước sự đàn áp, chèn ép của kẻ có quyền thế hay sức mạnh. Vì thế, người viết đã định nghĩa với cả hai ý nói trên (TĐVNPT trang 66).

Từ ấn tượng (TĐVNPT trang 12), trước kia, mình chỉ dùng như một danh từ. Thí dụ: buổi hoà nhạc gây được một ấn tượng tốt. Bây giờ trên các phương tiện truyền thông, người ta cũng dùng từ ấn tượng như một tính từ (mái tóc của cô đào X trông rất ấn tượng), thậm chí như một động từ (tôi rất ấn tượng với khu đô thị mới tại ngoại ô Hà Nội). Có lẽ các từ này được người ta, đặc biệt là đám trẻ, dịch từ tiếng Anh (to be impressive to impress). Thật ra, cách dùng này, đặc biệt là động từ, có vẻ không được chuẩn đối với tiếng Việt. Có điều, nghe hay thấy mãi thì có lẽ cũng quen. Nếu đa số thấy không thuận tai, có lẽ rồi cách dùng ấy cũng sẽ bị đào thải, như cụm từ kích cầu (viết gọn của kích thích nhu cầu tiêu dùng; TĐVNPT trang 409), cách đây vài chục năm được dùng hầu như hàng ngày, nay không còn thấy xuất hiện trên các phương tiện truyền thông trong nước nữa, và bị thay thế bằng từ khuyến mãi (TĐVNPT trang 407).

Từ lái xe (TĐVNPT trang 425) bây giờ được dùng thay cho tài xế, nhưng lại có nghĩa rộng hơn tài xế. Với tài xế, chiếc xe phải chạy bằng động cơ có ba bánh trở lên, như xe lam ba bánh, xe ô tô, xe buýt (TĐVNPT trang 900), còn lái xe thì dùng cho xe nào cũng được, từ xe đạp không động cơ tới xe nhà binh cả chục bánh. Có người thắc mắc, lái xe là động từ, sao lại dùng với nghĩa người lái xe là danh từ được? Ấy, chẳng qua là do người ta nghe không quen đó thôi! Ở miền Nam trước 1975, trong Tự điển LVĐ/LNT cũng có các từ lái buôn, lái đò: lái buôn là người đi mua góp các nơi về bản sỉ lại cho người khác; lái đò là chủ chiếc đò, người đấu giá khai thác một bến đò, hoặc người đưa đò (cô lái đò). Trong Từ điển TN ấn bản 1958 ở miền Nam thì từ lái (dt) có nhiều nghĩa, trong đó có nghĩa “người cầm lái”; như vậy lái xe có nghĩa là người cầm lái của chiếc xe, lái đò là người chèo đò. Còn trong TĐVNPT thì từ lái (dt) (trang 425) có nhiều nghĩa, trong đó có nghĩa là tài xế, người lái (trong thí dụ: mũi vạy, lái chịu đòn – tng, lái ở đây là người chèo thuyền hay lái tàu thuỷ). Nhớ lại, hồi còn học tại Đại học Y khoa, các lớp đều có nhóm bạn phụ trách việc ghi ‘cours’ lúc thày giáo giảng, sau đó mang tới các ‘tiệm Ronéo’ in ra thành bài cho bạn bè học, các bạn ấy được bạn bè âu yếm gọi là ‘lái cua’, mặc dù các bạn ấy không hề kiếm được lợi nhuận từ công việc này!

Từ bàn độc (TĐVNPT trang 22) có hai nghĩa: nghĩa 1 là bàn đọc sách của nhà nho thuở xưa (độc là đọc, như trong từ độc giả, hoặc trong 4 ngành nghề: ngư, tiều, canh, độc), nghĩa 2 là loại bàn cao và hẹp dùng để đồ thờ cúng (có một chân, như trong độc nhãn, độc thủ; thường thấy dựng ở trước cửa nhà của người ở miền Nam). Trong Từ điển LVĐ/LNT và Từ điển HP cũng có hai loại bàn này và được định nghĩa tương tự. Với nghĩa thứ nhất, chúng tôi cho thí dụ “chó nhảy bàn độc” vì chúng tôi hiểu là với cái đám ít học, nhố nhăng, thô lỗ, do thời thế đưa đẩy mà được nắm giữ các chức vụ cao trọng trong hệ thống tổ chức chính quyền (thấy rõ nhất là sau cuộc đảo chính năm 1963 ở miền Nam), chẳng khác nào cái bàn đáng trân trọng của nhà Nho xưa (bàn có 4 chân, rất thấp, để các Nho sinh ngồi xệp trên sàn nhà mà đọc sách Thánh Hiền) bị chó (vốn là giống đáng khinh như được dùng trong các từ ‘phũ như chó, chó đểu, chó ghẻ, chó chết, chó má, chó săn’; TĐVNPT trang 120) nhảy lên ngồi chễm chệ, trông rất lố bịch!

Thế nhưng, Học giả An Chi Võ Thiện Hoa (người Sài Gòn, đã mất) lại có cách giải thích khác:

“Chúng tôi không tin rằng bàn độc là cái bàn một chân (kê trước bàn thờ trên đó có đặt thức ăn để cúng kiếng). Theo chúng tôi, đây chỉ là lối giải thích bằng từ nguyên dân gian cho rằng độc là một, là duy nhất (nên mới suy ra rằng đó là cái bàn “một chân”). Xuất phát điểm của từ nguyên dân gian trong trường hợp này có thể là từ tổ độc trác có nghĩa là (ngồi ở bàn) ăn một mình, đối với đồng trác là (ngồi) ăn chung. Có thể người ta đã hiểu sai độc trác thành cái bàn một chân (độc: một; trác: bàn) rồi chuyển cái nghĩa bị hiểu sai này sang cho từ tổ danh từ bàn độc trong tiếng Việt chăng”. Nhưng Đại Nam quốc âm tự vi của Huình-Tịnh Paulus Của lại giảng rằng bàn độc là “ghế lễ lớn có bốn chân xếp, cũng là bàn dọn ăn”. Vậy chữ độc ở đây không có nghĩa là một. Chẳng những thế, chính tả của nó cũng đã bị viết sai vì cách viết đúng phải là đọc. Chứng thực cho cách viết đúng này là các mục từ “bàn đạoc” (cột 22) và “bàn đọc” (cột 226) trong Từ điển An Nam - Bồ Đào Nha - La Tinh của A. de Rhodes mà tác giả đã giảng là bàn thờ hoặc nơi cầu nguyện. Quyển từ điển này đã phân biệt rõ ràng hai vần oc và ôc: chữ đọc được viết là đạoc (X. cột 22) hoặc đăọc (X cột 205-206) còn chữ độc thì được viết là đọuc (X cột 220). Vậy đây là bàn đọc chứ không phải “bàn độc” vẫn biết rằng đọc chẳng qua cũng chỉ là một biến thể ngữ âm của độc, có nghĩa là xướng lên thành tiếng thành lời những điều đã được viết sẵn, in sẵn. Và bàn đọc chính là bàn tụng (hiện nay nhiều người vẫn còn dùng hai tiếng này), tức là cái bàn mà người ta đặt trước đầu quan tài, trên đó có bày hoa quả, trà rượu, lư hương, chân đèn… áp đầu quan tài có khung treo hình Phật, nơi nhà sư (hoặc thầy cúng) đặt lễ khí để gõ mõ tụng kinh mà cầu siêu cho người chết. Trong quá trình chuyển nghĩa của từ tổ đang xét, nghĩa gốc của nó lu mờ dần và mất đi. Bàn đọc đã được hiểu thành bàn cúng nói chung rồi với nghĩa này nó lại chuyển nghĩa thêm một lần nữa để chỉ cái bàn thờ (cái bàn cúng không nhất thiết là bàn thờ). Đây chính là nghĩa hiện hành được cho trong từ điển.

Vậy “chó nhảy (hoặc ngồi) bàn đọc” là chó nhảy (hoặc ngồi) bàn thờ. Thành ngữ này đã được Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ giảng như sau: “Vắng nhà hoặc cơn loạn-ly, trật-tự đảo-lộn, ai muốn làm chi thì làm”. Chúng tôi thì lại cho rằng đây không phải là chuyện xảy ra khi chủ vắng nhà, cũng chẳng phải chuyện xảy ra trong cơn loạn ly. Đây, theo chúng tôi, là thảm cảnh dở khóc dở cười xảy ra trong cơn lũ lụt: không những người phải chạy lụt, mà chó cũng phải chạy… nên mới nhảy lên bàn thờ mà ngồi. Đây chẳng qua là một trường hợp hoàn toàn bất khả kháng và chẳng qua cũng chỉ là một kiểu thích nghi với hoàn cảnh mà thôi. Có điều là kiểu thích nghi này quá hỗn láo. Hiền hơn nhiều là kiểu thích nghi - cũng để chạy lụt - mà Nguyễn Đình Chiểu đã nói đến trong câu thứ 6 của bài thơ “Nước lụt”: “Lổm xổm (hoặc lóc ngóc) giường cao thấy chó ngồi”. Còn trong câu thành ngữ đang xét (chó nhảy bàn độc) thì người ta muốn điển hình hoá nên mới đem cái bàn đọc ra mà nói để tăng tính bi kịch cho hoàn cảnh. Ngày nay câu này không còn được hiểu theo nghĩa gốc của nó nữa nên mới được dùng để ám chỉ những kẻ tài hèn sức mọn mà lại có địa vị cao sang (X. chẳng hạn: Nguyễn Lân, Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Hà Nội, 1989, tr. 57 hoặc Nguyễn Như ý (chủ biên), Từ điển thành ngữ Việt Nam, Hà Nội, 1993, tr. 148)”.

Từ lang bạt kỳ hồ (TĐVNPT trang 432) có nghĩa là lang thang phiêu bạt rày đây mai đó, không ở yên chỗ nào. Nghĩa này thật ra là do dân gian ghép các chữ lang thang phiêu bạt (bạc) và giang hồ (sống trên sông nước nay chỗ này mai chỗ kia). Khi đem cụm từ này ra bàn bạc trong nhóm biên soạn từ điển Việt Anh Pháp thì được BS Nguyễn Văn Bảo, bút hiệu Con Cò, góp ý: “cụm từ lang bạt kỳ hồ” vốn có xuất xứ từ câu thơ “lang bạt kỳ hồ, tái trí kỳ vĩ, Công tốn thạc phu, xích tích kỷ kỷ” trong Kinh Thi thiên 160 với nghĩa: ‘Chó sói bước tới thì đạp nhằm miếng da thòng ở cổ, Thoái lui thì đạp nhằm cái đuôi, Chu công từ tốn nhưng vinh quang to tát và đẹp đẽ, Ngài mang đôi giày đỏ một cách rất tự nhiên trang trọng”.

[Hỏi ông Wikipedia thì được ông trả lời: Bài thơ này được Chu Hi chú giải như sau: “Chu công dẫu bị lời phỉ báng nghi ngờ, nhưng cách xử trí của ngài không mất độ thường, cho nên mới được nhà thơ khen ngợi. Nói rằng: Chó sói bước tới thì đạp nhằm miếng da thòng ở cổ, thối lui thì đạp nhằm cái đuôi (ý nói tiến thoái đều khó khăn). Còn Chu công gặp phải biến cố vì lời phao truyền phỉ báng, mà cách ăn ở đi đứng vẫn an nhiên tự đắc như thế, bởi vì với đạo cao đức cả ngài vẫn được yên vui, đức hạnh ấy không thể nào nói xiết được. Cho nên tuy gặp đại biến, ngài vẫn không mất độ thường”.

Như vậy, nghĩa gốc của lang bạt kỳ hồ dùng để chỉ hình ảnh con chó sói giẫm lên cái yếm của chính nó (nên không thể bước tới được); trong đó, “lang” là chó sói, “bạt” là giẫm đạp, “kỳ” là một đại từ thay thế cho danh từ “lang” còn “hồ” là cái yếm da dưới cổ của một số loài thú. Thành ngữ này thường được rút gọn thành lang bạt nhằm để chỉ cái thế mắc kẹt, không biết làm sao.

Về lý do lang bạt kỳ hồ từ nghĩa gốc trong tiếng Hán bị hiểu sai trong tiếng Việt có thể là do từ nguyên dân gian mà ra. Khi không biết được ý nghĩa đích thực của lang bạt kỳ hồ, người ta đã liên hệ các thành tố của nó với những yếu tố mà mình đã biết. Theo đó, “lang” [chắc] là “lang thang”, “bạt” [chắc] là phiêu bạt, “hồ” [chắc] là “giang hồ”. Từ đó, lang bạt kỳ hồ mới [bị] hiểu thành “sống rày đây mai đó” như cách hiểu thông dụng hiện nay.]

Trong lúc biên soạn, chúng tôi cũng được đọc các bài viết phê bình về các từ ngữ mà các tác giả gọi là “từ của Việt Cộng”, cũng như được bàn luận với các bằng hữu trong lúc trà dư tửu hậu về một số từ mà họ nghĩ là mới xuất hiện sau năm 1975, và họ thấy “không ổn” về nghĩa. Trong số các từ ấy, chúng tôi thấy có những từ sau đây đáng được đem ra “mổ xẻ” và xác định.

Cửa khẩu (TĐVNPT trang 162): nơi ra vào chính thức của một nước, thường là phi trường hay hải cảng quốc tế, có đặt trạm kiểm soát hành khách xuất nhập cảnh cũng như hàng hoá xuất nhập khẩu. Trong Từ Điển ĐDA, ngoài nghĩa khẩu là miệng, còn có nghĩa là ‘cửa chính để ra vào’. Vậy từ khẩu ở đây có thể hiểu là cửa chính để ra vào của một nước, tức chỉ có thể là phi cảng hoặc hải cảng quốc tế. Nó khác với từ hải khẩucửa biển trong Từ điển LVĐ/LNT cũng như trong TĐVNPT (trang 316), và chỗ cửa sông ra biển trong Từ điển ĐDA, tức chỉ nói về đường thuỷ mà không nói đến đường hàng không như cửa khẩu.

Với từ hải quan (TĐVNPT trang 316), nó có hai nghĩa. Nghĩa 1 là cơ quan kiểm soát và đánh thuế hàng hoá xuất nhập khẩu, cơ quan này có thể đặt tại hải cảng hoặc phi cảng quốc tế; thuế đánh vào hàng hoá nhập xuất khẩu gọi là thuế hải quan. Nghĩa 2 là cửa biển hoặc bến tàu để các tàu, thuyền xuất nhập cảnh đậu.

Đăng ký (TĐVNPT trang 217): có người lý luận giản dị sao không dùng từ ghi danh thay cho đăng ký? Thưa, ghi danh hay ghi tên chỉ có nghĩa đơn giản là ghi cái tên của người ta xuống, như trong Từ điển TN, ông viết ghi tên là inscrire le nom, còn Từ điển LVĐ-LNT giải thích ghi tên là biên tên họ người vào. Trong khi đăng ký lại có nghĩa rộng hơn nhiều. Nó tương đương với từ registration/register trong tiếng Anh: ghi các thông tin cần thiết vào sổ bộ của một cơ quan, cơ sở dịch vụ, trang mạng, v.v., để được phép hoạt động hay sử dụng. Thí dụ với đăng ký kết hôn hay đăng ký tài khoản Netflix, ngoài họ tên chính thức, người ta còn phải ghi đủ các thông tin cần thiết khác về hộ tịch, cách chi trả lệ phí, v.v., thì việc kết hôn mới được luật pháp công nhận, hoặc việc sử dụng tài khoản Netflix mới được cho phép. Thật ra, từ đăng ký này đã có trong tất cả các từ điển của miền Nam trước 1975: Từ điển ĐDA giải nghĩa đăng ký là biên chép vào sổ, với phụ chú enregistrer, đồng nghĩa với đăng lục; Từ điển LVĐ/LNT giải nghĩa đăng ký là vô sổ, ghi vào nhật ký; còn Từ điển TN giải nghĩa đăng ký là ghi chép, với thí dụ đăng ký vào bộ điền và kèm theo phụ chú enregistrer.

Đáp án (TĐVNPT trang 214): có người nói sao không dùng từ đáp số (TĐVNPT trang 214) cho đơn giản? Thưa, đáp án không phải là đáp số. Đáp án có nghĩa là phương thức giải quyết vấn đề, trong khi đáp số chỉ là con số kết quả của một bài toán. Thí dụ: trước vụ tranh chấp giữa hai vợ chồng trước khi ly hôn, hai anh chị muốn chia chác tài sản ra sao, trách nhiệm nuôi con thế nào? Anh chị ngồi lại với nhau, hoặc đưa nhau ra toà, bàn bạc và tìm phương thức giải quyết sao cho hợp tình hợp lý. Khi đã đạt thoả thuận thì có nghĩa là hai anh chị đã tìm được đáp án. Từ điển LVĐ/LNT cũng viết đáp án là phương thế vạch ra để giải quyết một vấn đề; còn Từ điển ĐDA viết là phương pháp giải đáp một vấn đề, kèm theo phụ chú réponse.

Về từ trải nghiệm (TĐVNPT trang 1072), có người chê nó khó hiểu, sao không dùng từ kinh nghiệm (TĐVNPT trang 416). Thật ra hai từ này có nghĩa gần giống nhau, nhưng kinh nghiệm là danh từ, có nghĩa là điều hiểu biết hay kiến thức có được do sự từng trải, trong khi trải nghiệm là động từ, có nghĩa là kinh qua, sống và tiếp xúc trực tiếp với những thực tế ngoài đời, từ đó tạo cho mình một kinh nghiệm.

Về từ triển khai (TĐVNPT trang 1094), phe ta cho rằng chỉ có từ khai triển (TĐVNPT trang 381) mà không có từ triển khai. Trong Từ điển ĐDA thì lại không có từ khai triển mà chỉ có từ triển khai. Còn từ điển TN thì viết ‘khai triển, cũng thường nói triển khai: mở mang, phát triển, déveloper; Từ điển LVĐ/LNT: khai triển là phát triển, mở banh ra, nới rộng ra (khai triển đề tài), và triển khai là mở banh ra, mở rộng ra (triển khai vấn đề, triển khai nền kinh tế). Như vậy, cả hai từ cùng có một nghĩa, dùng từ nào cũng được.

Tương tự với hai từ giản đơn (TĐVNPT trang 290) và đơn giản (TĐVNPT trang 259), cả hai là một, dùng cách viết ngược hay xuôi đều được. Cả hai từ này cũng có trong các Từ điển LVĐ/LNT, ĐDA, và TN!

Về từ tư liệu (TĐVNPT trang 1141), có người thắc mắc và đưa lên mạng để tranh luận. Từ này có hai nghĩa: nghĩa 1 là chất hay vật liệu dùng trong sản xuất (tư liệu sản xuất) hay sinh hoạt (tư liệu sinh hoạt), nghĩa 2 là tài liệu dùng trong việc nghiên cứu (muốn viết về một đề tài chuyên môn, ta cần tra cứu các tư liệu khả tín). Từ điển LVĐ/LNT: tư liệu là tài liệu, những món phải có để dùng đó tạo ra đồ vật. Từ điển ĐDA: tư liệu là tài liệu để làm việc (matériel).

Còn rất nhiều từ khác bị phe ta gán cho là từ của “Việt Cộng”, lên án gay gắt bằng những bài viết và được nhiều người “biểu đồng tình”. Thật ra, có một số từ chúng ta chưa quen vì chúng là các từ thuộc ngành vi tính, như truy cập, giao diện, phần mềm, ổ cứng, thông tin, dữ liệu, v.v.. Qua tìm hiểu, hoá ra là chúng được dịch sát nghĩa từ các từ access, interface, software, hard drive, information, data, v.v., mà ra.

Cũng có những từ mà người miền Bắc thường dùng trước 1954-1955, những người di cư vào Nam (lúc ấy còn nhỏ) thì quên dần hoặc không dùng nên không biết đến chúng. Đến khi hai miền thống nhất năm 1976 thì các từ ấy được dùng cách phổ biến trên tất cả các phương tiện truyền thông trên toàn quốc, người sống ở miền Nam thấy lạ lẫm và tưởng chúng là các từ mới!

Dĩ nhiên, cũng có nhiều từ lạ đời, quái đản, thiếu nghiêm túc, được các bạn trẻ trong nước chế ra để dùng khi giao tiếp thân mật với nhau ngoài đời, và được một số người đưa vào kịch bản, bài báo với tính cách bông đùa. Hiện tượng chế các từ ấy cũng được giới trẻ khắp thế giới thực hiện, đặc biệt là khi các em dùng để chuyển tin nhắn (text) cho nhau. Hy vọng những từ ấy sẽ bị mai một theo năm tháng để trở thành tử ngữ, hoặc chỉ được dùng trong các mẩu đối thoại ngoài đời.

Và còn nhiều từ có gốc tiếng Anh, như clip, selfie, v.v., được các bạn trẻ trong nước chuyển hay dịch thành tiếng Việt, nghe rất vui, như cờ-líp và …tự sướng! Đây lại là một vấn đề khác của ngôn ngữ, người viết không dám lạm bàn…./.

 

Ghi chú:

1.     TĐVNPT: Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông, BS Lê Văn Thu và DS Nguyễn Hiền, in tại Đài Bắc, Đài Loan, tháng 8 năm 2023.

2.     Từ điển ĐDA: Hán Việt Từ Điển, Đào Duy Anh, in tại Sài Gòn, Việt Nam, ngày 10 tháng 10 năm 1957.

3.     Từ điển LVĐ/LNT: Việt Nam Tự Điển, Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, in tại Sài Gòn, Việt Nam, ngày 8 tháng 7 năm 1970.

4.     Từ điển TN: Từ Điển Việt Nam, Thanh Nghị, in tại Sài Gòn, Việt Nam, ngày 20 tháng 7 năm 1958.

5.     Từ điển HP: Từ Điển Tiếng Việt, Chủ biên GS Hoàng Phê, in tại TP Hồ Chí Minh, Việt Nam, ngày 23 tháng 10 năm 2017.


TỪ ĐIỂN VIỆT NGỮ PHỔ THÔNG 

 

Nói chuyện trên đài Saigon Houston ngày 26-10-2023

 

Đề tài: Giới thiệu quyển Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông và hai soạn giả là Bác sĩ Lê Văn Thu và Dược sĩ Nguyễn Hiền.

 

Quý Linh (QL): Thưa quý thính giả,

Đây là chương trình Văn Hóa Việt do Quý Linh thực hiện trên đài Saigon Houston mỗi tháng một lần vào ngày thứ năm của tuần lễ thứ tư.

Thưa quý thính giả, ngôn ngữ là một nét văn hóa đặc biệt trong di sản phi vật chất của mỗi dân tộc. Không phải chỉ có núi non ruộng đồng trên dải đất hình chữ S mới là gia tài của tổ tiên để lại, mà tiếng Việt cũng là một phần trong di sản ấy, “của khí thiêng non sông Hồng-Lạc đã chung đúc ra cho ta”  như nhà thơ Đông-Hồ đã viết. (“Gia-đình giáo-dục ký”, Tạp chí Nam-Phong tháng 3 năm 1927)

Đối với người Việt tha hương, sử dụng tiếng Việt thường xuyên, giữ gìn tiếng nói của dòng giống Việt, truyền dạy lại cho con cháu là những phương cách bảo tồn văn hóa.

Hôm nay chúng tôi rất hân hạnh được mời hai vị soạn giả quyển Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông là Bác sĩ Lê Văn Thu và Dược sĩ Nguyễn Hiền đến với chương trình Văn Hóa Việt để chia sẻ cùng quý vị đồng hương về sự thực hiện và hoàn thành quyển Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông.

Xin mời BS. Lê Văn Thu và DS. Nguyễn Hiền lên tiếng chào quý thính giả của đài Saigon Houston.

BS. Thu: Kính chào Nhà biên khảo Ngô Thị Quý Linh và quý thính giả của Đài Phát thanh Saigon Houston. Xin chào DS. Nguyễn Hiền.

DS. Hiền: Cũng xin kính chào chị Ngô Thị Quý Linh và quý vị thính giả của Đài Phát thanh Saigon Houston. Chào BS. Lê Văn Thu.

QL: Xin kính chào BS. Thu và DS. Hiền.

1.     QL: Thưa BS. Lê Văn Thu và DS. Nguyễn Hiền, đây là lần đầu tiên chúng tôi hân hạnh được quý vị nhận lời hội thoại trong chương trình Văn Hóa Việt. Trước khi bắt đầu đề tài hôm nay, xin mời nhị vị dành cho quý thính giả một vài phút để nói về tiểu sử của quý vị.

Xin kính mời BS. Lê Văn Thu lên tiếng.

 

 

a.      BS. Thu:

Tôi xin được tự giới thiệu, tôi tên Lê Văn Thu, tốt nghiệp Đại học Y khoa Sài gòn năm 1973, và cũng là một quân y sĩ hiện dịch, đã phục vụ tại Bệnh xá Sư đoàn 3 BB, Quân Lực VNCH, ở Quảng Nam, từ cuối năm 1973 tới cuối tháng 3 năm 1975. Là tù binh tại các trại cải tạo ở miền Trung VN từ đầu tháng Tư 1975 (trước khi Sài Gòn thất thủ) đến giữa năm 1976. Sau khi được trả tự do, về làm việc cho Phòng Y tế Quận 11, Thành phố HCM, từ 1976 tới 1979. Vượt biên bằng thuyền tới trại tị nạn Pulau Bidong, thuộc Mã Lai, giữa tháng 5 năm 1979. Định cư tại thành phố Seattle, Tiểu bang Washington, từ tháng 8 năm 1980 với diện cựu quân nhân. Học và lấy lại bằng bác sĩ y khoa của Mỹ sau 4 năm, và mở phòng mạch hành nghề tư tại thành phố Tacoma, Tb Washington, chăm sóc bệnh nhân đủ mọi sắc tộc, cả bản địa lẫn di dân, từ giữa năm 1984 tới gần cuối năm 2013 thì về hưu.

 

QL: Xin cảm ơn BS. Thu. Chúng tôi xin kính mời DS. Nguyễn Hiền.

 

b.      DS. Hiền:

Còn tôi tên Nguyễn Hiền. Tôi biết bác sĩ Lê Văn Thu từ khi chúng tôi còn là Sinh viên Quân Y, cùng khóa với nhau, tức là cùng ra trường năm 1973, nhưng tôi là Dược sĩ. Sau khi ra trường, tôi phục vụ trong sư đoàn 9 Bộ Binh, đóng ở Vĩnh Long. Sau khi miền Nam mất vào tay Cộng sản, tôi cũng như các sĩ quan khác bị đi cải tạo. Cuối năm 1977 tôi được thả, khi ấy như quý vị cũng biết, miền Nam rất thiếu chuyên viên, tôi xin được một chỗ trong một hiệu thuốc quốc doanh ở Sài Gòn. Tới năm 1980 tôi tìm được một tổ chức vượt biên và may mắn chiếc ghe được tàu Hòa Lan vớt, nên tôi nhanh chóng được định cư ở quốc gia này. Khi đó Hòa Lan đánh giá bằng dược sĩ của Việt Nam Cộng Hòa chỉ tương đương với 2 năm đầu đại học Dược khoa ở đây, vì vậy tôi phải trước hết học tiếng Hòa Lan, sau đó theo tiếp học trình chính thức của họ, tức là học thêm 3 năm nữa để lấy được bằng doctorandus Dược năm 1985, bằng này cao hơn Master. Phải có bằng này rồi, mới được học thêm 2 năm nữa để lấy bằng Dược sĩ. Vì tôi đi chuyên ngành Kỹ thuật Dược nên sau đó làm trong các công ty sản xuất dược phẩm cho tới tuổi về hưu, năm 2016.

 

2.     QL: Thưa quý anh, quý anh một nguời là y sĩ, một người là dược sĩ. Cả hai đều là  những nhà chuyên môn trong ngành Y và Dược. Xin nhị vị soạn giả cho biết lý do nào nhị vị nghĩ đến việc soạn từ điển là một công trình có tính cách văn học?

 

QL: Xin mời BS. Thu lên tiếng trình bày với quý thính giả.

 

a.     BS. Thu:

Chúng tôi nghĩ tới việc soạn một cuốn từ điển Việt ngữ phổ thông từ đầu thập niên 2010, khi mà chúng tôi có được các cuốn từ điển của các soạn giả của miền Nam như ông Đào Duy Anh, Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, cũng như các cuốn từ điển của các soạn giả ở trong nước xuất bản sau này, như của nhóm Hoàng Phê, ông Nguyễn Lân, và một vài vị khác. Khi đọc, chúng tôi thấy các cuốn ấy đều có rất nhiều ưu điểm, nhưng cũng không thiếu những khuyết điểm. Có một số từ bị định nghĩa chưa chính xác, có khi sai lạc, hoặc là do ở các thập niên trước 1970, việc tiếp cận với các nguồn thông tin chưa dễ dàng, hoặc là do tâm lý soạn giả bị ảnh hưởng quá sâu đậm bởi khuynh hướng chính trị đảng phái, nên một số từ bị định nghĩa với nghĩa khác với nghĩa gốc của nó.  Vì thế, chúng tôi nghĩ tới việc soạn một cuốn từ điển mới hơn, đầy đủ hơn, với các định nghĩa chính xác và trung thực hơn, để giúp mọi người, từ giới học thuật tới sinh viên và học sinh, ở trong nước cũng như ở ngoài nước, có nguồn ngôn ngữ khả tín để tra cứu mỗi khi cần.

Thế rồi, tới năm 2015, vào dịp kỷ niệm 40 năm tị nạn, để soạn bài vở cho cuộc triển lãm ở Giáo xứ Công giáo Việt Nam vùng Seattle, chúng tôi có cơ hội tra cứu các tài liệu trên các mạng xã hội, và thấy rằng con số di dân người Việt trên khắp thế giới đã lên tới hơn 5 triệu người, trong đó hơn 2 triệu người ở Mỹ, gần 500 ngàn người ở Úc, 350 ngàn người ở Pháp, hơn 250 ngàn người ở Canada, hơn 200 ngàn người ở Đức, và hơn 100 ngàn người ở Anh, không kể hàng chục ngàn người ở nhiều nước khác. Trong số hơn 2 triệu người ở Mỹ, có đến hơn một nửa thuộc thành phần trẻ, trong đó 37% được sinh ra tại Việt Nam. Nhìn các con số này, chúng tôi thấy việc hoàn thành cuốn từ điển càng trở nên cấp bách, và thôi thúc chúng tôi phải cố gắng hơn nữa, vì không muốn thành phần trẻ ấy quên mất tiếng Việt, hoặc hiểu sai lạc ý nghĩa của tiếng Việt, nhất là đa số các em được sinh ra và lớn lên sau năm 1975, nếp nghĩ phần nào đã bị tha hoá và biến chất bởi nền giáo dục xã hội chủ nghĩa.

 

QL: Chúng tôi xin cảm ơn BS. Thu và xin mời DS. Hiền.

 

b.     DS. Hiền:

Thưa chị cùng quý vị thính giả, việc làm cách nào để lưu giữ những từ ngữ có nguy cơ bị mai một do các nguyên nhân khách quan và chủ quan là điều mà tôi đã suy nghĩ từ mấy chục năm nay, khi chính tôi cũng nhiều lúc gặp bối rối khi viết, vì tôi thường xuyên viết truyện và bài đăng báo. Sau khi Việt Nam bị chia đôi bởi hiệp định Genève, tiếng Việt ở hai miền đã phát triển theo hai hướng khác nhau. Hiện tượng bên này tránh dùng từ ngữ của bên kia đưa đến hệ quả tất nhiên là sau khi đất nước thống nhất sẽ phải có một cuộc lọc lựa từ ngữ, mà sự lọc lựa này đương nhiên chịu rất nhiều áp lực của bên thắng.

Như vậy có nghĩa là rất nhiều từ ngữ trước kia ‘phổ thông’ ở miền Nam, thì nay có nguy cơ rất lớn là chúng sẽ bị mai một đi. Người ta dần dà sẽ nói triển khai thay vì khai triển, đảm bảo thay vì bảo đảm, cửa hàng thay vì tiệm, xe hơi không còn nữa, chỉ còn ô-tô v.v.. Rất hiếm có trường hợp một từ miền Nam trở thành từ phổ thông, nhưng đó là vì lý do khác. Như ‘siêu thị’, vì miền Bắc trước kia không có, ‘trực thăng’ vì Việt Nam hiện thời cũng đã có, do đó họ không muốn dùng từ ‘tàu bay lên thẳng’ mang tính miệt thị ‘nôm na là cha mách qué’, kiểu những từ thí dụ như ‘Nhà Trắng’ (thay vì Tòa Bạch Ốc biểu tả sự kính trọng) hoặc ‘giặc cái’.

Nhiều từ ngữ được gán thêm một hoặc nhiều nghĩa mới. ‘Xử lý’ chẳng hạn. Hay ‘nhất định’ trong câu: ‘có một số kinh nghiệm nhất định’, v.v. Hoặc do nhu cầu chính trị, nghĩa của một số từ đã bị chính trị hóa theo hướng do nhà nước chỉ đạo để có thể qua đó tuyên truyền nhận thức của họ.

Tiếng Việt (ở đây tôi muốn nói chữ quốc ngữ) là một ngôn ngữ rất trẻ. Nó sẽ thay đổi liên tục và rất nhanh. Nhưng thay đổi theo lối tôi thấy hiện nay thì rất đau lòng. Ở hải ngoại, nhiều bậc cha mẹ sẽ gặp lúng túng khi phải giải thích cho con cháu. Tìm trong từ điển thì không thấy, hoặc có trong từ điển mà thấy nghĩa không phải như mình nghĩ thì cũng không biết phải làm sao.

Tuy mang ưu tư như vậy nhưng lúc đó tôi không biết giải quyết cách nào. Cũng có lúc tôi nghĩ đến việc kêu gọi làm một cuốn từ điển, nhưng trong hoàn cảnh sinh sống của tôi nơi đất nước Hòa Lan nhỏ bé, chuyện đó coi như vô hy vọng. Bởi thế, khi nhận được lời kêu gọi của nhóm biên soạn từ điển, qua anh bác sĩ Lê Văn Thu, mà chúng tôi vốn đã biết nhau từ những năm còn là sinh viên quân y, tôi đã sốt sắng nhận lời, vì thấy đây cũng là một dịp rất tốt để tôi có thể trau giồi thêm tiếng Việt.

 

3.     QL: Thưa quý thính giả, quyển Từ điển Việt Ngữ Phổ thông rất dày, có đến gần 1300 trang và trên 62 ngàn từ. Đây là một công trình đòi hỏi nhiều thời gian, kiên nhẫn và tìm tòi sâu rộng, rất đáng khâm phục, nhất là chỉ có hai soạn giả. Xin quý anh cho biết tiến trình và phân công trong việc soạn thảo quyển từ điển này.

Xin mời BS. Thu.

 

a.     BS. Thu:

Thoạt khởi đầu vào năm 2011, chỉ có mình tôi soạn. Tới đầu năm 2018 thì xảy ra việc một số quân y sĩ đàn anh trong Diễn đàn Cựu SVQY, trong đó có anh Bác sĩ Nguyễn Đương Tịnh, bút hiệu Trúc Cư, định cư tại Pháp, vừa là nhà văn, vừa là nhà biên khảo thơ Đường, có ý định làm một cuốn từ điển Việt-Pháp-Anh, nhằm duy trì và phổ biến tiếng Việt trong sáng cho các thế hệ con cháu, đặc biệt là cho các cháu đang định cư hay du học ở nước ngoài. Thấy anh ấy gặp khó khăn trong việc chọn từ Việt để biên dịch, tôi bèn ngỏ ý giao phần Việt ngữ mà tôi đã và đang soạn để các anh ấy dùng làm nguồn từ, coi như tôi phụ trách phần Việt ngữ, các anh khác phụ trách phần Pháp và Anh ngữ. Anh Tịnh rất mừng và chấp nhận ngay sau khi xem qua bản thảo của tôi. Công việc được các anh khác hỗ trợ và góp sức: anh BS Trần Văn Tích, một nhà biên khảo rất uyên bác về Hán ngữ, định cư ở Đức, anh Nguyễn Đức Liên, Vũ Chấn, Nguyễn Văn Tạ và Trương Minh Cường, rất giỏi về Anh ngữ, định cư tại Mỹ. Thỉnh thoảng, chúng tôi cũng được GS Trần Huy Bích, một giáo sư tiến sĩ của UCLA, rất uyên thâm về Hán học, BS  kiêm nhà văn, nhà thơ Nguyễn Văn Bảo, bút hiệu Con Cò, và BS Nguyễn Hy Vọng, một nhà ngữ học đã có một số sách biên khảo được ấn hành, trong đó phải kể tới cuốn Từ Điển Nguồn Gốc Tiếng Việt, giúp ý kiến trong việc tra cứu nghĩa của các từ. Ngoài ra, chúng tôi còn được các vị đàn anh khác, như anh BS Hà Ngọc Thuần, BS Nguyễn Ngọc Khôi trên Diễn đàn Cựu SVQY, các bạn cùng lớp như BS Hầu Mặc Hưng và BS Nguyễn Mạnh Tiến, thỉnh thoảng góp ý hoặc bổ sung từ ngữ. Chúng tôi rất trân trọng sự giúp đỡ và đóng góp ý kiến của các anh ấy.

Trở lại việc biên soạn cuốn từ điển Việt Ngữ, cũng trong thời gian bắt đầu việc biên soạn cuốn từ điển tam ngữ nói trên, tôi được biết anh DS Nguyễn Hiền, định cư ở Hoà Lan, qua việc anh ấy và tôi cùng tham gia vào công tác hiệu đính cho tờ báo mạng của Diễn đàn Cựu SVQY, tôi bèn mời anh ấy giúp tôi phần hiệu đính cho bản thảo cuốn từ điển. Điều tình cờ thú vị là anh ấy và tôi cùng xuất thân khoá 20 QYHD năm 1973, anh ấy bên Quân Dược, còn tôi bên Quân Y.

Đến tháng 9 năm 2018, thấy việc soạn thảo còn lâu mới có thể xong nếu tôi làm một mình, tôi liền đề nghị anh Hiền soạn cho một số vần. Qua công tác soạn thảo và hiệu đính, chúng tôi làm việc với nhau rất hài hoà, ăn ý về đủ mọi lãnh vực của ngôn ngữ, nên công việc trôi chảy thuận lợi, và vì thế, cuốn từ điển đã được trình làng đầu tháng Tám vừa qua.

(Từ lúc anh Hiền nhận cộng tác với tôi, anh Hiền và tôi là hai thành viên phụ trách phần Việt ngữ của Nhóm Biên soạn từ điển Việt Pháp Anh. Việc soạn cuốn từ điển này hiện vẫn được tiến hành, tuy có hơi chậm).

Chưa hài lòng với kết quả hiện tại, chúng tôi vẫn đang rà soát lại cuốn từ điển ấn bản 2023 để cố gắng sửa chữa những sai sót, bổ sung các từ, đặc biệt là tăng cường phần định nghĩa, giải thích các từ thuộc về khoa học tự nhiên cách khoa học hơn, để độc giả hiểu đúng đó là con gì, cây gì, mỗi khi muốn tìm hiểu về chúng.

 

QL: Xin cảm ơn BS. Thu đã chia sẻ. Xin mời DS. Hiền lên tiếng.

 

b.     DS. Hiền:

Sự phân công trong việc soạn thảo cuốn từ điển thì anh bác sĩ Thu đã vừa trình bày rồi. Tôi nhập cuộc khi anh Thu đã biên soạn được khoảng một nửa. Qua những bàn thảo trước khi bắt tay vào việc và xem những vần anh Thu đã làm, tôi thấy anh đã nghiên cứu rất kỹ về phương pháp biên soạn, đã đề ra một số nguyên tắc căn bản. Vì thế, đại thể chúng tôi đã thống nhất với nhau về cách tiến hành công việc theo những nguyên tắc đó. Còn trong tiến trình soạn thảo, nếu thấy có những gì cần bổ khuyết thì chúng tôi sẽ bàn với nhau để đi đến quyết định chung. Thí dụ như khi nào viết i, khi nào viết y, hay dấu giọng (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng) phải đặt ở đâu, v.v.. Đây là những vấn đề không dễ giải quyết nhưng chúng tôi đã tìm ra được một số nguyên tắc mà theo chúng tôi nhờ đó đã vượt qua được hầu hết những trở ngại trong việc lựa chọn. Như anh Thu vừa trình bày, chúng tôi có một nhóm biên soạn, phần lớn là các vị trong y giới, tôi phải nói là rất thán phục kiến thức của những vị này bên ngoài lãnh vực y khoa, các vị đó đã cho chúng tôi rất nhiều ý kiến đóng góp, bổ túc, bổ nghĩa, và nhất là giải thích tường tận những từ cổ hoặc điển tích ít người biết.

Chúng tôi bắt đầu bằng một danh sách chính, gồm những từ ‘chắc chắn được coi là phổ thông’. Công trình lọc lựa thành danh sách này cũng được chị Hương Mai, là vợ của anh Thu, giúp cho rất nhiều. Sau đó thì tùy theo, chúng tôi chia nhau làm từng vần một. Từ danh sách các từ gốc này chúng tôi sẽ bổ túc thêm những từ chúng tôi biết được, qua tham khảo các cuốn từ điển lớn xưa nay, các từ điển chuyên ngành, sách về các bộ môn khoa học chính xác và khoa học xã hội, qua sách vở báo chí, qua mạng internet…

Trong việc biên soạn, chúng tôi tra cứu nghĩa, sắp xếp thứ tự các nghĩa, bắt đầu từ nghĩa chính hoặc nghĩa cụ thể, cho đến những nghĩa phụ và nghĩa bóng. Với những từ địa phương chúng tôi cố gắng cho thí dụ bằng những câu phù hợp với những từ đó. Với những từ vay mượn chúng tôi cố gắng tìm từ gốc. Những tên cây cỏ thú vật thì chúng tôi cho thêm tiếng Latinh để người ta có thể tra cứu thêm.

Khi đã thành bản sơ thảo, chúng tôi chuyển cho nhau để bổ túc, qua ba bốn lượt hiệu đính nội dung lẫn hình thức, chúng tôi chấp nhận bản chính thức. Thời gian hơn 12 năm tưởng là dài, nhưng thực sự nó qua rất nhanh. Tiếng Việt có tổng cộng 29 vần, tính trung bình mỗi năm chúng tôi phải làm 2 vần rưỡi. Có những vần rất lớn, như vần T chúng tôi đã phải mất hơn một năm cho việc biên soạn, vần N cũng phải mất khoảng một năm. 

 

4.     QL: Thưa quý anh, trong vô số chữ trong kho tàng chữ nghĩa tiếng Việt, chắc khó mà có thể để hết các chữ đã có từ xưa đến nay vào trong một quyển từ điển. Xin quý anh cho thính giả được biết nhị vị soạn giả quyển Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông đã đặt ra những tiêu chuẩn như thế nào trong việc chọn từ ngữ.

Chúng tôi xin mời BS. Thu trình bày.

 

a.     BS. Thu:

Thực ra, chúng tôi đã băn khoăn rất nhiều khi nghĩ đến vấn đề đặt ra tiêu chuẩn để chọn từ. Mình là người quốc gia, sống ở nước ngoài, hằng ngày đọc sách báo của người quốc gia viết trước và sau 1975, các từ ngữ trong các sách báo ấy đã như nằm sẵn trong tiềm thức, tiêu chuẩn chọn từ không có gì là khó cả.

Bản thân tôi đã từng bị tù trong các trại cải tạo, rồi làm việc ba năm cho chế độ mới sau khi được thả về, tôi đã có cơ hội tiếp thu các từ mới, đúng ra là từ cũ nhưng được người miền Bắc bên kia sông Bến Hải dùng nhiều và mình chưa bao giờ nghe nên tưởng là từ mới, tôi quen dần với văn phong và từ ngữ của các nhà văn, nhà báo xã hội chủ nghĩa, nên đối với tôi, chúng không có gì lạ lẫm cả. Nhưng vài chục năm gần đây, chúng ta lại thấy xuất hiện nhiều từ rất mới, nghe thấy lạ tai, khó hiểu, thường được dùng cách thoải mái trên báo, đài trong nước. Sau một thời gian tìm hiểu thì tôi thấy rất nhiều từ được dịch từ tiếng Anh, đặc biệt là các từ về vi tính. Tôi cũng hiểu những từ ấy không có gì là sai hay lạc ra ngoài khuôn mẫu ngôn ngữ Việt, chẳng qua là người ta dùng không đúng chỗ, đúng lúc, đôi khi lại dùng với tính cách giễu cợt, nên chúng trở thành kỳ quặc. Tôi bàn với Dược sĩ Nguyễn Hiền và đi đến quyết định, với tư cách là những người biên soạn từ điển, phải cho tất cả các từ ấy vào sách của mình, và cho nó những định nghĩa chính xác nhất, đồng thời cho các thí dụ để người ta hiểu đúng nghĩa và biết cách dùng.

Như vậy, trong từ điển của chúng tôi, nó có cả các từ thật xa xưa (gọi là từ cũ hay xưa), có những từ có gốc là Hán, Pháp và Anh ngữ, có những từ được dùng phổ thông tại hai miền Nam hoặc Bắc trước và sau 1975, và có cả những từ mới phát sinh sau này, đặc biệt là các từ được dịch từ Anh ngữ.

 

QL: Xin cảm ơn BS. Thu. Chúng tôi xin mời DS. Hiền lên tiếng.

 

b.     DS. Hiền:

Nói về tiêu chuẩn chọn từ ngữ thì đây là một vấn đề khá phức tạp. Tiếng Việt là một sinh ngữ, nó thay đổi theo thời gian, đó là điều đương nhiên. Nhưng tiếng Việt không là một sinh ngữ hiểu theo nghĩa thông thường, do hoàn cảnh đất nước và yếu tố chính trị. Hàng triệu người Việt khi định cư ở nước ngoài đã mang theo một hành trang văn hóa, bao gồm cả ngôn ngữ. Họ muốn bảo tồn những gì đã nuôi dưỡng họ, họ trân trọng và tôn thờ những giá trị văn hóa truyền thống đó và vì thế khó chấp nhận những cái mới, kể cả những từ ngữ mới, vì ngôn từ cũng phản ảnh văn hóa, nếp sống của một cộng đồng dân tộc. Vốn từ vựng trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại vì thế chuyển biến chậm hơn trong nước. Cũng phải nói thêm ở đây là ngôn ngữ cũng được dùng để xác định cộng đồng mình đang sinh sống trong đó. Nếu trong chiến tranh, ngôn ngữ là một phương tiện giản dị để phân biệt bạn thù, thì sau chiến tranh ngôn ngữ lại trở thành phương tiện để phân biệt Quốc-Cộng, bên này bên kia.

Khi biên soạn cuốn từ điển, chúng tôi muốn là công trình này mang được tính phổ quát, tức là hữu dụng cho tất cả người Việt, bất kể họ đang cư ngụ ở đâu trên thế giới. Mà thế giới hiện đang tiến rất nhanh ở tất cả mọi mặt. Điều này cũng có nghĩa là liên tiếp xuất hiện những khái niệm mới, từ đó đưa đến những từ mới, nhất là ở các lãnh vực chính trị, kỹ thuật, xã hội… Chuyển một từ mới từ tiếng Anh sang tiếng Việt cũng phải chạy theo với một nhịp độ khủng khiếp, đến mức dường như người ta có thói quen dùng luôn nghĩa cổ điển mà không còn có thể để ý xem những từ mới đó trong tiếng Việt có dễ hiểu không, hoặc giả họ không có thời giờ để suy nghĩ. Nhiều từ mới đã khiến người Việt ở hải ngoại bối rối đưa đến dị ứng và có khi chê bai. Vài thí dụ: phát triển bền vững, tên lửa hành trình, mở tài khoản để vào cổng thông tin điện tử, hoặc dùng từ ‘siêu’ cho tất cả những gì ‘super’ trong tiếng Anh. Mới ba ngày trước đây (23/10), sau tai nạn giao thông trên đường xa lộ ở Louisiana gây hư hại cho hơn 150 chiếc xe, báo tiếng Việt khi đăng tin đã dùng từ ‘siêu sương mù’ (dịch từ ‘super fog’)! Chọn một từ ‘phổ thông’ trong bối cảnh này có nghĩa là cũng phải có sự tiên liệu xem từ ngữ đó trong tương lai sẽ được đại chúng chấp nhận hay không. Như trong thí dụ trên, ‘tài khoản’ là dịch từ account trong tiếng Anh do nhu cầu cấp bách, nhưng khi chúng ta mở account để có thể vào xem hồ sơ thì không cần phải có ‘tiền’ (tức là tài) trong đó. Có một số người đã dùng từ ‘danh khoản’, nhưng tôi thấy chưa có mấy hy vọng là từ này sẽ được nhiều người chấp nhận, vì vậy trong cuốn từ điển của chúng tôi chưa có từ này.

 

5.     QL: Thực hiện quyển từ điển này là một công trình lớn lao, dài lâu và phức tạp. Quý anh đã phải dành ra một thời gian cả 12 năm trời để thực hiện. Xin nhị vị soạn giả cho biết những khó khăn quý anh gặp phải trong khi soạn thảo.

Xin mời BS. Thu lên tiếng.

 

a.     BS. Thu:

Khó khăn thì nhiều, chủ yếu là vấn đề phải cân nhắc việc chọn từ để cho vào từ điển. Có những từ mà một số người quốc gia rất nhạy cảm, cho rằng những từ ấy là của “Việt Cộng”, nhất định không chấp nhận; ai dùng nó có thể sẽ bị gán cho cái nhãn thân Cộng! Thế nhưng, đã gọi là từ điển thì phải đầy đủ nguồn chữ để cho các thế hệ sau tra cứu mỗi khi cần, chúng tôi nghĩ là mình không thể loại bỏ chúng được, nhưng phải giải nghĩa sao cho đúng để mọi người thấy các từ ấy là tiếng nước nhà, chứ không phải là từ riêng của chế độ mới!

Lại có những từ mới quá, đặc biệt là các từ thuộc ngành vi tính, các từ ấy lại được giới chuyên môn dịch từ tiếng Anh thành tiếng Việt, đúng ra là Hán Việt, như giao diện, thiết bị, vi xử lý, trình duyệt, v.v., mà chúng tôi lại không chuyên trong các ngành ấy nên rất khó định nghĩa. Chúng tôi phải vào mạng, tìm đến các trang về khoa vi tính để đọc xem người ta viết và sử dụng các từ ấy ra sao. Đọc mà chưa chắc mình đã hiểu vì ngành này vẫn còn non trẻ, thuật ngữ vi tính bằng tiếng Việt chưa được chọn lọc và viết rõ ràng . Thế là mình phải đọc thêm, đọc mãi, đọc cả bên tiếng Anh xem họ nói ra sao, từ đó mới dần dần hiểu ra, để rồi tóm tắt thành một định nghĩa sao cho người không thuộc ngành vi tính cũng có thể hiểu được.

QL: Xin mời DS. Hiền lên tiếng.

 

b.     Hiền:

Cuốn từ điển của chúng tôi có tựa là Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông, tức là một quyển từ điển tập hợp những từ đã và đang được phổ biến trong mọi giới quần chúng.

Nhưng trên thực tế, như tôi đã trình bày ở trên, hơn 5 triệu người Việt sống ở nước ngoài có một vốn từ vựng hơi khác những người Việt trong nước. Trong tương lai, các nhà biên soạn từ điển trong nước sẽ dần dần loại bỏ một số từ trước đây được coi là phổ thông trong xã hội miền Nam. Họ sẽ lấy lý do là vì dân chúng không còn dùng nữa nên những từ này không được coi là ‘phổ thông’. Một số từ có liên quan đến Việt Nam Cộng Hòa hoặc vì lý do chính trị sẽ được giải thích sao cho hợp với chủ trương chính sách của nhà cầm quyền, bất chấp lời giải thích đó có hợp lý hay không. Thí dụ như trong Từ Điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, từ ‘ngụy quyền’ được giải thích là ‘chính quyền lập ra để chống lại chính quyền hợp pháp của nhân dân’. Lời giải thích này không đúng, vì trong lịch sử, các triều đại nối tiếp nhau chỉ là sự chiếm quyền của một nhóm quyền lực mới thành lập. Trong quyển Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông, chúng tôi giải thích từ ‘ngụy quyền’ như sau: chính quyền của phe giặc không có chính nghĩa (thường là từ để nhà cầm quyền phe này gọi cách khinh miệt chính quyền phe bên kia). Một định nghĩa chính xác phải là một định nghĩa không bị thay đổi theo thể chế chính trị hay hoàn cảnh xã hội.

Thử tưởng tượng sau này, khi tra cứu nghĩa trong từ điển, những thiếu sót và sai sót như trên sẽ có ảnh hưởng ra sao? Quý vị nên nhớ rằng cuốn từ điển tiếng Việt phổ thông cuối cùng ở miền Nam được xuất bản năm 1970. Từ đó tới nay đã hơn 50 năm trôi qua, chúng ta phải chăng vì cuộc sống mà đã quên việc lưu truyền kho tiếng Việt của mình?

Do đó, để đáp ứng nhu cầu tra cứu của hơn 5 triệu người gốc Việt đang sinh sống tại nước ngoài, và cho những người sau này muốn tìm hiểu thêm về lịch sử cận đại, chúng tôi thấy có bổn phận phải tìm cách giữ những từ có nguy cơ bị xóa bỏ hoặc bị dẫn giải không trung thực. Nói thì dễ, nhưng làm sao để chúng tôi giữ được tính khách quan là một chuyện khác.

Một khó khăn khác trong việc lựa chọn từ ngữ là sự cân nhắc giữa từ ‘đúng’ (tôi dùng chữ ‘từ đúng’ nếu xét theo nguồn gốc từ) và từ đã trở thành phổ thông, được rất nhiều người chấp nhận. Hiện nay có một cách đánh giá sự phổ thông của một từ là tìm qua Google, bên cạnh sự tìm hiểu về nguồn gốc của từ đó. Một thí dụ: hai từ ‘giông tố’ và ‘dông tố’, Google tìm ra hơn 500 ngàn kết quả với ‘giông tố’ và 700 ngàn kết quả với ‘dông tố’. Tìm hiểu về lịch sử hai từ này, chúng tôi thấy từ đúng phải là ‘dông tố’, nhưng vì sự quá phổ thông của ‘giông tố’, bắt nguồn từ cuốn tiểu thuyết ‘Giông Tố’ của Vũ Trọng Phụng, chúng tôi đã đưa cả hai từ vào trong cuốn từ điển. Tuy nhiên, từ đơn ‘giông’ không có trong từ điển của chúng tôi, vì chúng tôi nhận thấy từ ‘giông’ này không thể coi là một từ phổ thông được.

Trong ngữ học, có một ngành gọi là ngành Từ Điển học (lexicography), ngành này chuyên nghiên cứu về cách biên soạn từ điển. Trên thế giới có nhiều nhà từ điển học nổi tiếng như Noah Webster (Hoa Kỳ), Pierre Larousse (Pháp), Johan Hendrik van Dale (Hòa Lan)… mà tên tuổi đã gắn liền với những bộ từ điển mẫu mực. Việt Nam cũng có những nhà từ điển học như Đào Duy Anh, Thiều Chửu, Hoàng Phê, v.v.. Rất tiếc là những sách dạy về bộ môn này rất khó tìm, tuy nhiên, với một số kiến thức cơ bản, tuy còn hạn hẹp, nhưng chúng tôi cũng đã cố gắng đặt bước khởi đầu và sự thực chúng tôi rất hãnh diện khi nhìn lại thành quả đã đạt. Tôi hy vọng là sau khi quyển từ điển này được phổ biến, chúng tôi sẽ nhận được những đóng góp cho lần tái bản, hoặc có người nào đó hiểu được sự cần thiết phải có một cuốn từ điển tiếng Việt mà tiếp nối công việc duy trì tiếng Việt cho tới khi hai dòng ngôn ngữ và văn hóa trong và ngoài nước có thể gặp nhau.

 

6.     QL: Thưa quý anh, đã hơn một trăm năm nay, từ khi có quốc-ngữ, đã có rất nhiều quyển từ điển tiếng Việt được xuất bản. Mỗi quyển có những đặc điểm riêng tùy theo thời kỳ phát hành hoặc tùy thuộc vào phạm vi chuyên môn. Xin quý anh chia sẻ đến thính giả đài Saigon Houston những điểm đặc biệt của quyển Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông.

 

Xin mời BS. Thu lên tiếng.

 

a.      BS. Thu:

Quyển từ điển này, như đã nói ở trên, là nơi tập trung hầu như tất cả các từ cũ, thật xưa, của các chế độ, từ phong kiến, tới thực dân, từ chế độ cộng hoà ở miền Nam tới chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Nó cũng được bổ sung với các từ mới phát sinh sau này, kể cả các từ ngoại quốc được du nhập vào xã hội Việt Nam và được người trong nước chuyển thành ngôn ngữ Việt từ sau ngày Việt Nam mở cửa, đón nhận nền văn minh và học thuật Tây phương.

Nói chung, có thể nói quyển từ điển này là quyển có nhiều từ nhất so với mươi cuốn từ điển Việt ngữ mà chúng tôi hiện sở hữu trong tủ sách gia đình.

QL: Cảm ơn BS. Thu và xin mời DS. Hiền.

 

b.     DS. Hiền:

Điểm nổi bật mà người tra cứu có thể nhận thấy ngay, là cách giải thích theo khoa học hiện đại. Thí dụ: từ ‘Xanh’ được các từ điển giải thích như sau: ‘màu giống lá cây hay nước biển’ (Việt Nam Tự Điển – Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ), ‘màu như màu lá cây’ (Việt Nam Tự Điển – Khai Trí Tiến Đức) hoặc ‘có màu của lá cây hay nước biển’ (Từ Điển Tiếng Việt – Hoàng Phê). Nhưng nếu xét cho kỹ, nước biển có thể từ gần như trong suốt (nhìn thấy cát sâu vài ba thước hoặc thấy cá bơi dưới đáy) cho tới đen ngòm (những ai đã đi tị nạn bằng đường biển đều trải qua cảm giác ghê rợn khi nhìn màu này), và lá cây không hẳn là có ‘màu xanh lá cây’ mà có thể có màu đỏ, màu vàng phớt màu xanh lá cây v.v. Chúng tôi chọn cách giải thích: Có màu của nước biển, da trời hoặc của lá cây. Cách giải thích này bao hàm cả màu xanh dương.

Những từ ngữ về luật pháp, xã hội cũng được định nghĩa theo như cách định nghĩa hiện nay, được giải thích ngắn gọn hơn cho dễ hiểu nếu có thể được. Chúng tôi quen với cách định nghĩa của khoa học chính xác, mà từ ngữ dùng trong dân gian có thể khác nhau tùy theo vùng miền, hoặc gây khó hiểu cho một số người, cho nên chúng tôi cố gắng ghi chú thêm tên khoa học bằng tiếng Latinh để những người muốn tìm hiểu thêm có thể tra cứu trong sách chuyên ngành, hoặc xem thêm giải thích trong Wikipedia là cuốn từ điển bách khoa trực tuyến ngày càng trở nên thông dụng.

Những từ có gốc ngoại quốc cũng được chú thích thêm về nguồn gốc. Những từ có cách phát âm khác nhau tùy vùng miền cũng được chúng tôi xem xét cẩn thận, vì không phải chúng có thể lúc nào cũng dùng lẫn lộn nhau. Thí dụ từ ‘nhơn dân’ cũng giống như ‘nhân dân’ khi dùng với nghĩa ‘toàn thể người dân sống trong một vùng hoặc trong một nước’, nhưng chỉ có ‘ủy ban nhân dân’ mà không có ‘ủy ban nhơn dân’, vì đây là một từ hành chính.

 

7.     QL: Trong quyển từ điển này,  chắc thể nào cũng có phần giải thích những chữ mới vì những chữ mới sẽ là những chữ mà nhiều người trong chúng ta muốn có được một câu giải thích minh bạch về những chữ mà mình không biết rõ. Xin nhị vị soạn giả cho vài ví dụ về một số chữ mới trong trong quyển Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông.

 

a.     BS. Thu:

Không kể những thuật ngữ mới thuộc lãnh vực vi tính, như cổng thông tin điện tử, giao diện, truy cập, v.v., chúng tôi cũng đã viết dưới hình thức giải thích, tranh luận về một số từ, cũ cũng như mới, xin đan cử vài thí dụ: đó là từ ấn tượng, chữ giờ với ký hiệu H, và cụm từ lang bạt kỳ hồ.

Về từ ấn tượng: Trong ngôn ngữ Việt trước đây nó chỉ được dùng như một danh từ, có nghĩa là cảm nhận sâu sắc (nó hàm nghĩa tốt khi đứng một mình, như trong câu "bức tranh đã tạo được ấn tượng trong lòng người xem"; khi cần nói rõ nghĩa, người ta phải thêm tính từ "xấu, tốt" sau nó, như trong câu "sau buổi hoà nhạc, khán thính giả đã có ấn tượng tốt về danh cầm thủ S., nhưng ấn tượng xấu về ban tổ chức"). Nay, người ta cũng có thể dùng nó như một tính từ, có nghĩa là “có cảm nhận tốt, gây được sự chú ý với chiều hướng tốt (td: cuộc trình diễn thời trang hôm nay rất ấn tượng)”; mới nghe thì tưởng là sai vì nó chưa có trong kho ngôn ngữ Việt, nhưng khi nghĩ tới từ impressive của tiếng Anh thì rõ ràng là người ta có tính từ, tại sao mình lại không? Qua việc du nhập các từ của tiếng nước ngoài rồi chuyển dịch thành tiếng nước nhà, kho ngôn ngữ Việt đã được làm giàu thêm.

Về chữ giờ với ký hiệu H, ở trên các báo, đài trong nước người ta dùng ký hiệu h để thay cho chữ giờ viết tắt. Thí dụ 20h30 là 20 giờ 30. Tôi thấy việc làm ấy không đúng, và tôi đã viết như sau về vần G:

G dt 1. chữ viết tắt của “giờ” (5 giờ 30 được viết tắt là 5g30; việc sử dụng chữ h để viết tắt chữ giờ trong tiếng Việt, thí dụ 5h30, là không nên vì đó là tàn tích của thời kỳ nô lệ thực dân Pháp, mà người dân thường chưa bao giờ tiếp xúc với tiếng Pháp cũng không hiểu chữ h này lấy ở đâu ra; ngoài ra, trong bảng ký hiệu quốc tế cũng không thấy quy định này!); 2. chữ viết tắt của gam, đơn vị đo khối lượng (100g).

Về cụm từ lang bạt kỳ hồ, đây là một câu được trích trong Kinh Thi, thiên 160, nguyên văn là một bài thơ dài, trong đó có 4 câu “lang bạt kỳ hồ, tái trí kỳ vĩ, Công tốn thạc phu, xích tích kỷ kỷ”. Để giải thích cái điển cố đưa đến việc một nhà thơ làm nên bài thơ này để ca tụng Chu Công thì dài dòng lắm. Đại khái là Chu Công Đán, một khai quốc công thần đời nhà Chu bên Tàu bị gièm pha, vu khống bởi Quản Thúc, nhưng khác với kẻ xấu, độc ác như lang sói, lúc nào cũng lấn cấn trong hành động, tiến thoái lưỡng nan, ông vẫn an nhiên tự tại, thoải mái trong cuộc sống, không đếm xỉa gì đến những lời vu khống đó. Nghĩa của cụm từ này nếu giải thích theo điển cố ấy thì hoàn toàn khác với nghĩa nôm na mà người mình hiểu. Cụm từ lang bạt kỳ hồ có chữ lang bạt, người mình bèn hiểu là lang thang phiêu bạt, với chữ kỳ hồ, người mình liền liên tưởng tới giang hồ, như trong đi giang hồ rày đây mai đó; thế là lang bạt kỳ hồ được chúng tôi định nghĩa “lang thang phiêu bạt rày đây mai đó không ở yên chỗ nào” theo cách hiểu của dân gian. Và tôi kết luận: cách dùng cụm từ ‘lang bạt kỳ hồ’ này trong ngôn ngữ Việt không thể dùng điển cố Trung Hoa mà dẫn giải hay giải thích được.

QL: Xin mời DS. Hiền cho một vài ví dụ về chữ mới trong quyển từ điển này.

b.     DS. Hiền:

Nếu quý vị mở cuốn từ điển của chúng tôi và xem vần P thì sẽ thấy ngay một chuyển biến quan trọng trong cách phát âm của người Việt. Tiếng Việt khi xưa chỉ có vần kép Ph, vần P được phát âm như B, thí dụ ‘cái bơm’ có gốc từ tiếng Pháp ‘pompe’, ‘xe ăn banh’ là từ cụm từ ‘en panne’ trong tiếng Pháp, ‘bánh mì ba-tê’ là từ pâté chẳng hạn. Tuy nhiên, những thế hệ người Việt sau này, qua tiếp cận với Tây phương, đã quen với phụ âm đơn P. Vì thế, trong từ điển hồi xưa, vần P bắt đầu bằng chữ Pha, thì trong cuốn từ điển do chúng tôi biên soạn, trước ‘Pha’ là những từ vay mượn từ tiếng nước ngoài như Pa-tê, Pa-tăng…, và khi hết Ph sẽ là Pin, (bánh) Pía, v.v..

Tiếng Việt có nhiều chữ theo thời gian đã mất hẳn nghĩa cũ. Từ ‘xử lý’, nghĩa cũ là: cứ lý lẽ và luật lệ mà phân xử, thì bây giờ ‘xử lý’ mang những ý niệm hoàn toàn khác. Trong cuốn từ điển chúng tôi đã liệt kê ra 5 nghĩa hiện nay được coi là phổ thông, trong đó đương nhiên có cả nghĩa ‘vận hành’ (như khi ta nói ‘bộ xử lý trong máy vi tính’) và nghĩa bóng ‘xử tử, loại trừ khỏi tổ chức’, nghĩa này đã trở thành phổ thông sau khi Trần Thư cho ra đời cuốn hồi ký có tựa là ‘Tử Tù Tự Xử Lý Nội Bộ’.

Một nhóm từ mới, được chúng tôi đưa vào cuốn từ điển là những từ thuộc lãnh vực tin học, như con trỏ, giao diện, cà thẻ, v.v.. Những từ được giới trẻ dùng nhiều thành quen như ‘chảnh’, ‘phượt’ cũng có trong cuốn từ điển. Một số từ có thể gây hiểu lầm cũng được chúng tôi chọn, tuy chúng chỉ xuất hiện trong một giai đoạn nào đó. Một thí dụ của những từ loại này là sida, khi gặp cụm từ ‘đồ sida’ thì biết đó là hàng viện trợ của cơ quan thiện nguyện SIDA của Thụy Điển, nó không dính dáng gì đến bệnh AIDS cả (bệnh Aids ở Việt Nam gọi là Sida, là chữ viết tắt theo tiếng Pháp). 

 

8.     QL: Có người cho rằng hai chữ  “tự điển” và “từ điển” cùng một nghĩa. Xin quý vị soạn giả cho biết quý vị có phân biệt hai từ này không?

 

a.     BS. Thu:

Thực ra, vấn đề phân biệt từ và tự trong tiếng Việt đã được nhiều vị uyên thâm về Hán văn bàn cãi rất nhiều.

Theo tôi hiểu, tự là chữ, mỗi chữ có một âm tiết được cấu tạo bởi nhiều con chữ. Thí dụ chữ quả có 3 con chữ, đó là q u ả. Chữ quả này có thể là từ, vì nó chỉ rõ một vật, đó là trái cây; thế nhưng trong từ công quả thì quả chưa phải là một từ, nó phải thêm chữ công mới đủ nghĩa là “sức lực và thì giờ bỏ ra cách tự nguyện cho một công việc của nhà chùa mà không lấy tiền công”.

Trong tiếng Hán luôn có một bộ thủ đi kèm một chữ để giúp tiếng đó có đủ nghĩa mà người ta muốn nói. Thí dụ bộ Nhân. Ngay trong bộ nhân cũng có bộ nhân đứng, bộ nhân nằm và bộ nhân đi. Căn cứ vào mỗi cách viết của bộ đó mà người ta hiểu từ ấy có nghĩa gì; chưa có bộ đó thì chưa phải là từ, mà mới chỉ là một chữ.

Còn trong tiếng Việt thì việc phân biệt quả thật rất khó, và các nhà ngôn ngữ học của mình vẫn còn đang tranh luận, chưa ngã ngũ.

 

b.     DS. Hiền:

Theo học giả Đào Duy Anh, TỰ là chữ và TỪ là lời, trong LỜI (từ) đã có CHỮ (tự), tra cứu về lời (từ) tức cũng tra cứu về chữ (tự). Như vậy, theo quan điểm của ông,“từ điển là gồm cả tự điển ở trong”. Chúng tôi đồng ý với nhận định này, tuy rằng hiện nay trên thực tế người ta dùng lẫn lộn cả hai từ, với cùng một nghĩa “cuốn sách, hoặc bộ sách dùng để tra cứu nghĩa”. Và cũng vì thế, trong cuốn từ điển này chúng tôi ghi nhận cả hai từ, với cùng một nghĩa.

 

9.     QL: Thưa quý thính giả, sau khi được hai vị soạn giả giải thích việc thực hiện và soạn thảo từ điển của nhị vị, chúng tôi xin được có một câu hỏi là xin nhị vị soạn giả giải thích lý do quý vị chọn tựa Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông cho quyển từ điển này.

 

DS. Hiền:

Về hai chữ Từ Điển, chúng tôi đã vừa trình bày. Về phần còn lại của cái tựa sách thì thưa chị và quý vị, cách tốt nhất là tôi xin đọc nguyên văn phần giải thích, mà chúng tôi đã ghi trong mục Hướng dẫn cách sử dụng cuốn từ điển:

·       Tiếng Việt và Việt ngữ có khác nhau không? Cả hai từ đều có nghĩa là nói, nhưng ‘ngữ’ là từ Hán Việt, ‘tiếng’ là từ nôm; ở đây, tên của cuốn từ điển này có đến sáu âm tiết, năm âm tiết đã là từ Hán Việt thì âm tiết còn lại chúng tôi nghĩ cũng nên dùng từ Hán Việt cho thuần nhất.

·       Vì sao gọi là phổ thông? Khi soạn cuốn từ điển này chúng tôi chỉ dám có tham vọng sưu tầm các từ thông thường đã và đang được phổ biến rộng trong mọi giới quần chúng, kể cả một số từ cơ bản (nhưng đã trở thành phổ thông) trong các ngành chuyên khoa như triết học, luật học, y học, hay vi tính, v.v..

10.   QL: Thưa quý thính giả và quý anh, thời gian dành cho chương trình Văn Hóa Việt sắp chấm dứt. Chúng tôi xin mời nhị vị soạn giả quyển Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông cho lời kết cho buổi hội thoại hôm nay.

a.  DS. Hiền:

Chúng tôi biên soạn cuốn Từ điển Việt Ngữ Phổ Thông với mục đích chính là giúp cho người Việt có một cuốn từ điển để tra cứu các từ cũ có trong kho tàng sách báo Việt, cũng như để hiểu về các từ mới phát sinh của tiếng nước nhà. Mặc dù trong mấy tháng vừa qua được nhiều người khen ngợi về hình thức cũng như nội dung, nhưng chúng tôi biết rằng cuốn từ điển này chưa hoàn hảo. Bởi vậy chúng tôi mong mỏi được nghe thêm nhiều ý kiến đóng góp xây dựng của những người đã sử dụng cuốn từ điển này. Và chúng tôi cũng xin quý vị quảng bá công trình biên soạn này đến những người thân, vì càng có nhiều người biết tới thì chúng tôi càng thu lượm được nhiều kinh nghiệm cho ấn bản sau.

b. BS. Thu:

Chúng tôi xin cám ơn quý vị đã lắng nghe chúng tôi trình bày và cũng cám ơn chị Ngô Thị Quý Linh, một nhà biên khảo và giáo dục vừa có tâm vừa có tầm, từng có nhiều sách được xuất bản, đã cho chúng tôi cơ hội gặp gỡ quý thính giả của Đài Sài Gòn Houston, Texas, trong buổi hội luận hôm nay.

 

QL: Thưa BS. Thu và DS. Hiền, trước khi tạm biệt thính giả, xin nhị vị cho biết cách nào có thể đặt mua được quyển Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông?

BS Thu:

Thưa chị Quý Linh và quý thính giả,

Để đặt mua tại Hoa Kỳ, Canada và Việt Nam, xin quý vị gởi điện thư cho cô Lê Vũ Hương-Quỳnh tại địa chỉ tudienvn2023@gmail.com, hoặc gọi điện thoại cho số +1-253-642-7340.

Ngoài ra, tại Tự Lực Bookstore và Cơ sở Người Việt ở Nam California hiện cũng đã có bán sách từ điển này.

DS Hiền:

Để đặt mua tại Úc châu và các nước Âu châu, xin quý vị liên lạc với tôi tại địa chỉ điện thư hien@ziggo.nl, hoặc số điện thoại +31-65389-5328.

 

QL: Chúng tôi xin cảm ơn hai vị soạn giả BS. Lê Văn Thu và DS. Nguyễn Hiền đã dành thì giờ quý báu trình bày về việc thực hiện quyển Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông đến quý thính giả của đài SGH. Mong quý thính giả sẽ ủng hộ và hỗ trợ cho công việc thực hiện từ điển của hai vị soạn giả BS. Thu và DS. Hiền.

Chúng tôi xin cảm ơn quý thính giả đã theo dõi chương trình hôm nay và xin hẹn gặp lại quý vị trong chương trình lần tới.

 

PHÀM LỆ

 

Quý vị đang cầm trên tay cuốn Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông, là một công trình tim óc mà chúng tôi đã ôm ấp và ra sức biên soạn trên 12 năm. Chúng tôi, với kiến thức hạn hẹp về ngôn ngữ và văn chương của những người làm công tác khoa học bên ngành y và dược, mạo muội đi vào công tác biên soạn một cuốn từ điển giải nghĩa tiếng nước nhà, quả là một sự liều lĩnh!

Liều lĩnh nhưng vẫn phải làm vì bốn lý do chính:

1.        Muốn duy trì sự trong sáng của tiếng Việt, giúp giải phóng nó khỏi bóng tối của thành kiến chính trị và văn hoá.

2.        Định nghĩa lại nhiều từ đã có từ trước nhưng chưa được giải thích chính xác và rõ ràng.

3.        Bổ sung một số từ được phát sinh sau này, đặc biệt là một số từ thông dụng trong ngành vi tính và tin học.

4.        Tạo cơ hội cho mọi người:

-          từ học sinh, sinh viên, là những người còn đang trong giai đoạn học tập và tiếp thu, cần trang bị cho mình những từ và ngữ cụ thể, cần thiết và chính xác;

-          đến các bậc thức giả, là những người có kiến thức uyên bác về nhiều lãnh vực, nhưng thỉnh thoảng cần tra cứu một vài từ cổ hay ít dùng, hoặc chỉ phổ thông ở một địa phương nào đó.

Khi đọc các từ điển do các bậc tiền bối biên soạn, có cuốn được biên soạn từ thời đệ Nhất hay đệ Nhị Cộng Hoà ở miền Nam Việt Nam, lúc ấy khoa học chưa phát triển nhiều, khoa vi tính và tin học còn phôi thai, chúng tôi thấy các lời giải thích - đặc biệt là về các ngành khoa học tự nhiên -  có nhiều thiếu sót và chưa chuẩn xác. Trong một số cuốn từ điển được soạn từ lúc tiếng Việt còn ở giai đoạn phôi thai ở đầu thế kỷ thứ 19, chúng tôi thấy có nhiều từ được viết khác với cách viết hiện giờ (lẫn lộn giữa dgi, chẳng hạn). Ngược lại, ở thời buổi hiện nay, nhiều tài liệu, dữ liệu, thông tin được viết bằng ngoại ngữ hay bằng chính tiếng Việt bởi các chuyên gia uy tín của các ngành được phổ biến rộng rãi trên các mạng truyền thông, việc truy cập của người muốn tìm hiểu không còn khó khăn hay bị giới hạn như trước nữa, nên việc biên soạn của chúng tôi có phần dễ dàng hơn, và chính xác hơn.

Cũng có những cuốn từ điển gần đây được biên soạn bởi các soạn giả có trình độ rất cao về ngôn ngữ, nhưng vì một lý do nào đó, quý vị bỏ sót rất nhiều từ tưởng là cũ nhưng vẫn rất cần thiết cho sự giao tiếp hàng ngày của mọi người, hoặc để các giới tra cứu mỗi khi gặp các từ ấy trong lúc đọc các sách xưa! Cũng có từ điển được biên soạn bởi người có định kiến chính trị phe phái quá sâu đậm nên rất nhiều từ đã được gán cho những nghĩa mà thật ra chúng không hề mang!

Ngôn ngữ được phát triển liên tục, song hành với những chuyển biến về văn hóa và xã hội. Có những từ cũ đã chết hẳn trong cuộc giao tiếp hằng ngày bây giờ, hoặc đã được dùng với nghĩa khác hẳn giữa quá khứ và hiện tại. Thí dụ như từ “khoái lạc”, trong văn chương dòng chính, nó có nghĩa là sảng khoái, sung sướng và vui vẻ, nhưng trong một số sách truyện sau này, nó lại mang nghĩa rất dung tục, đó là tình trạng sướng khoái lúc giao hợp! Có những từ mà người được sinh ra và lớn lên tại miền Bắc xã hội chủ nghĩa dùng cách tự nhiên và thấy rất bình thường, thì người sống ở miền Nam, được sinh ra hoặc được giáo dục dưới chế độ Cộng Hoà, lại thấy lạ lẫm! Có những từ mà người trong nước hiện nay dùng cách thoải mái thì người sống ở nước ngoài, đặc biệt là đồng bào tị nạn chính trị, lại thấy kỳ quặc, không dung nạp được! Chúng tôi cố gắng ghi lại tất cả trong cuốn từ điển này với các định nghĩa mà chúng tôi nghĩ là đúng đắn và khách quan nhất để mọi người, dù thuộc khuynh hướng chính trị nào, hay sinh sống tại các vùng miền khác nhau, đều có thể tra cứu và tìm hiểu cách thoải mái trong tinh thần vị văn chương và học thuật.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TRI ÂN

Khi soạn cuốn từ điển này, chúng tôi đã được các bậc thức giả trong học giới, các đàn anh trong ngành y dược có trình độ Hán học khá cao và uyên bác về nhiều lãnh vực khác chỉ bảo, hướng dẫn, góp ý, chúng tôi hết sức trân trọng và cám ơn. Trong số quý vị ấy, chúng tôi xin được trân trọng cảm ơn quý đàn anh trong ngành Y: Bác sĩ Nguyễn Hy Vọng (Mỹ), Bác sĩ Nguyễn Đương Tịnh (bút hiệu Trúc Cư - Pháp), Bác sĩ Trần Văn Tích (Đức), Bác sĩ Nguyễn Văn Bảo (bút hiệu Con Cò), Bác sĩ Vũ Chấn, Bác sĩ Nguyễn Văn Tạ, Bác sĩ Nguyễn Đức Liên, và Bác sĩ Trương Minh Cường (Mỹ). Chúng tôi cũng không quên cảm ơn một đàn anh rất khả kính, thời còn sinh tiền, đã trao tặng cho chúng tôi một cuốn từ điển Anh Việt rất cổ, với một câu khích lệ thật chí tình, đó là cố Bác sĩ Trần Tấn Phát (California, Mỹ). Chúng tôi cũng không quên cảm ơn các bạn cùng lớp, Bác sĩ kiêm Văn sĩ Nguyễn Mạnh Tiến (Úc) và Bác sĩ kiêm Văn-Thi sĩ Hầu Mặc Hưng (Hoa Kỳ), đã cung cấp thêm cho chúng tôi một số từ rất đặc biệt, cũ và mới.

Riêng với Bác sĩ Nguyễn Đương Tịnh, Bác sĩ Vũ Chấn, Bác sĩ Nguyễn Văn Tạ, và Bác sĩ Trương Minh Cường, chúng tôi rất hãnh diện khi được quý anh chọn bản thảo cuốn từ điển này để dịch sang Pháp và Anh ngữ, nhằm soạn một cuốn từ điển tam ngữ Việt-Pháp-Anh, với hoài bão giúp mọi người, đặc biệt là các sinh viên học sinh Việt Nam, cũng như người ngoại quốc, có phương tiện để tìm hiểu về ngôn ngữ Việt Nam.

Với đồng soạn giả, Dược sĩ Nguyễn Hiền, hiện định cư tại tỉnh Utrecht, Hoà Lan, là người có nhiều tác phẩm biên soạn và biên dịch, đã giúp chúng tôi phần hiệu đính cũng như biên soạn một số vần. Chúng tôi là hai người bạn tâm đầu ý hợp, đã đồng quan điểm trên nhiều lãnh vực khi cùng biên soạn cuốn từ điển này.

Chúng tôi muốn nhắc đến hiền thê, Vũ Thị Hương-Mai, cũng là một người bạn thi văn, dù đau yếu, vẫn cố đánh máy tất cả các đầu chữ từ vần A tới vần Y để giúp chúng tôi dễ dàng trong công tác biên soạn. Và với các con của chúng tôi: Lê Vũ Hương-Quỳnh, Lê Vũ Thuý-Tiên, Lê Vũ Tường-An ( ) và Lê Vũ Đan-Vy, các con thuộc thành phần trẻ sống ở nước ngoài từ bé, là một trong những đối tượng mà bố nhắm tới khi soạn cuốn từ điển này với kỳ vọng là giới trẻ các con về nguồn, cố gìn giữ văn hoá và sử dụng ngôn ngữ Việt trong cuộc sống hàng ngày.

Chúng tôi thành thật cảm ơn ông Đỗ Mỹ Văn, người bạn rất thân và cũng là một chuyên gia về kỹ thuật vi tính, đã giúp trình bày cuốn từ điển này theo đúng khuôn khổ mà nhà in yêu cầu.

Sau cùng, chúng tôi xin trân trọng cảm ơn quý độc giả đang cầm trên tay cuốn  từ điển này. Hy vọng nó sẽ giúp ích quý vị phần nào trong việc tra cứu về văn hoá và từ ngữ Việt. Chắc chắn cuốn từ điển này còn nhiều thiếu sót, kính mong quý vị góp ý để lần ấn hành tới, nó sẽ trở thành hoàn hảo hơn. Mọi góp ý xin gởi về địa chỉ điện thư thu2usa@gmail.com hoặc hien@ziggo.nl.

Trân trọng.

BS Lê Văn Thu

 

Hướng dẫn cách sử dụng cuốn từ điển

I.                     Mục đích biên soạn

 

Cuốn từ điển này được biên soạn nhằm mục đích phổ biến các từ ngữ phổ thông Việt Nam mà tập thể người Việt ở trong nước cũng như ở hải ngoại cần để sử dụng trong các giao tiếp thường ngày; vì thế nhóm biên soạn cố gắng giản dị hoá cách định nghĩa cũng như cho các thí dụ dễ hiểu để sao cho mọi người thuộc mọi tầng lớp có thể nắm bắt được ý nghĩa của từng từ một cách dễ dàng.

 

Nó cũng nhằm giúp các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ Việt có cơ sở để tra cứu; vì thế nhóm biên soạn cố gắng giữ lại các từ cổ (thịnh hành ngày xưa, nhưng ít dùng bây giờ) và thêm các phương ngữ mà chúng tôi lượm lặt được (mặc dù không đầy đủ).

 

Ngoài ra, nhận thấy ngôn ngữ trải qua các thể chế thường bị hiểu sai nghĩa gốc của nó tuỳ theo quan điểm chính trị; người ta gán cho từ ngữ những tội mà nó không hề mang. Thí dụ: công an, cảnh sát và an ninh là những ngành mà nước nào cũng phải có để giữ gìn an ninh trật tự trong nước, bảo vệ sinh mạng người dân. Bản chất của ngành công an, cảnh sát hay an ninh không độc ác và tham nhũng; sự độc ác hay tham nhũng, nếu có, là do tính tình và đạo đức của người thi hành công vụ, hoặc do chế độ cố tình dung túng cho các hành vi sai trái ấy. Vì thế, nhóm soạn thảo cố gắng sửa lại các định nghĩa và cho các thí dụ sao cho chỉ nói lên cái nghĩa căn bản đúng đắn của từ.

 

Đất nước ta có hoàn cảnh chính trị và địa lý đặc biệt, trải qua nhiều lần chia cắt đưa đến khác biệt vùng miền và quan điểm, nhất là sau Hiệp định Genève. Hai chế độ ở hai miền có những xây dựng và phát triển khác nhau, từ đó có những tổ chức, cơ quan hay chức vụ mang danh nghĩa khác nhau; nhóm biên soạn cố gắng giải thích các từ sao cho mọi người, dù sống ở miền nào, sinh trước hoặc sau năm 1975, đều hiểu được nghĩa đúng như ý người đặt ra các tổ chức, cơ quan hay chức vụ ấy.

 

II.       TẠI SAO GỌI LÀ TỪ ĐIỂN VIỆT NGỮ PHỔ THÔNG?

 

1.        Theo học giả Đào Duy Anh, TỰ là chữ và TỪ là lời, trong LỜI (từ) đã có CHỮ (tự), tra cứu về lời (từ) tức cũng tra cứu về chữ (tự); “vậy từ điển là gồm cả tự điển ở trong – ĐDA”.

2.        Tiếng Việt và Việt ngữ có khác nhau không? Cả hai từ đều có nghĩa là nói, nhưng ‘ngữ’ là từ Hán Việt, ‘tiếng’ là từ nôm; ở đây, tên của cuốn từ điển này có đến sáu âm tiết, năm âm tiết đã là từ Hán Việt thì âm tiết còn lại chúng tôi nghĩ cũng nên dùng từ Hán Việt cho thuần nhất.

3.        Vì sao gọi là phổ thông? Khi soạn cuốn từ điển này chúng tôi chỉ dám có tham vọng sưu tầm các từ thông thường đã và đang được phổ biến rộng trong mọi giới quần chúng, kể cả một số từ cơ bản (nhưng đã trở thành phổ thông) trong các ngành chuyên khoa như triết học, luật học, y học, hay vi tính, v.v..

III.         Các mục từ được xếp:

 

·       Theo thứ tự chữ cái:

 

a                ă                â                b                c                d               đ               e                ê                  g               h               i                 k                l                m              n               o               ô                  ơ               p                q               r                s                t                u               ư               v                  x                y

 

·       Theo thứ tự dấu giọng (được phổ biến trong các sách giáo khoa thời Đệ Nhất Cộng Hoà):

 

không dấu, sắc, huyền, hỏi, ngã nặng.

 

·       Trong các từ đa âm tiết, chữ được xếp theo thứ tự của chữ cái:

xếp trước bác

chuồn xếp trước chuồng

chuồng xếp trước chuốt (vì n đi trước t).

 

·       Về việc đặt dấu thanh trên nguyên âm, chúng tôi theo quy tắc của ngữ âm học, được tóm tắt như sau:

 

1.      Với các nguyên âm đơn: Đặt dấu thanh điệu vào vị trí của nguyên âm (tá, ngò, hỉ, ngũ, tụng, nghé).

 

2.      Với các âm tiết có âm chính là nguyên âm đôi:

 

o    Nếu nguyên âm được viết là , iô, yê, oa, oă, uâ, uê, uy, uô, uơ, ươ thì bỏ dấu lên nguyên âm thứ hai (cước, miền, giỗ, hoá, hoặc, tuần, Huế, tuệ, tuỷ, thuở, cường, cướp, yến, nuột, vượt, mướt).

 

o    Nếu nguyên âm được viết là ai, ay, eo, êu, oe, ôi, ơi, ưa thì bỏ dấu lên nguyên âm thứ nhất (mãi, láy, méo, nếu, xòe, mỗi, đợi, khứa).

 

o    Trường hợp các tổ hợp “ia”, “iu” và “ua”:

 

* Với "ia" và “iu” thì phân biệt bằng sự có mặt hay vắng mặt của chữ cái "g" ở đầu âm tiết. Có "g" thì đặt vào "a" và “u” (giá, già, giả, giã, giạ, giúp, giùm), không có "g" thì đặt vào "i" (bìa, tỉa, tía lía, cà khịa, địa, dắt díu, dìu nhau, dịu ngọt). Trường hợp đặc biệt: "gịa" (có trong từ "giặt gịa" và đọc là dzịa).

 

* Với "ua" thì phân biệt bằng sự có mặt hay vắng mặt của chữ cái "q". Có "q" thì đặt vào "a" (quà, quả, quạ, quán), không có "q" thì đặt vào "u" (chúa, múa, chùa, lúa, lụa, tủa).

 

3.      Với các âm tiết có âm chính là nguyên âm ba: Đặt dấu thanh điệu vào nguyên âm thứ hai (gian giảo, hiểu, ngoéo tay, loại, tréo ngoảy, khuấy, khuỷu, lười, rượu, yếu), ngoại trừ các nguyên âm ba “uyên” và “iươ”, dấu thanh điệu được đặt vào nguyên âm thứ ba (quyến luyến, giường).

 

·       Về trường hợp các âm tiết có nguyên âm I  (thường gọi là i ngắn) hay Y (thường gọi là i dài) ở cuối (như trong từ qui định hoặc quy định), chúng tôi vẫn không dám dứt khoát cách viết nào là đúng hay chính xác. Từ trước đến nay, người mình dùng chúng theo thói quen hoặc theo sự ưa chuộng cá nhân. Các bộ giáo dục và văn hoá, là cơ quan có thẩm quyền về việc tiêu chuẩn hoá ngôn ngữ, qua các giai đoạn của lịch sử, cũng chưa có các quyết định dứt khoát hay rõ ràng về vấn đề này. Trong trường hợp cả hai cách viết được nhiều người dùng, chúng tôi ghi nhận cả hai, để giúp mọi người có thể tra cứu dễ dàng.

 

 

IV.                  CÁC CHỮ VIẾT TẮT:

 

·       Loại từ:

 

bt                                    biến từ

dt                                    danh từ

đdt                                 đại danh từ

đt                                    động từ

gt                                    giới từ

kng                                 khẩu ngữ

kt                                    kết từ

lt                                     liên từ

mt                                   mạo từ

pn                                   phương ngữ, chữ địa phương

pt                                    phụ từ

st                                    số từ

thn                                 thành ngữ

tht                                  thán từ

tt                                     tính từ

trt                                   trạng từ

 

·       Những chữ dùng để chú thích:

 

1.        Những chữ được viết thường:

 

bóng                              nghĩa bóng

cd                                   ca dao

ck                                    chữ khác

cng                                 cách ngôn

dịch                                kinh dịch

đd                                   đồng dao

động                              động vật

đy                                   đông y

hình                                hình học

hoá                                 hoá học

id                                    ít dùng

kd                                   khuyết danh

kng                                 khẩu ngữ

lóng                                tiếng lóng

luật                                 luật pháp

nng                                 ngạn ngữ

Phật                               Phật giáo

phong                            phong tục, tục lệ

cg                                   Công Giáo

chúa                               Thiên Chúa giáo

thể                                  cơ thể học

thực                               thực vật

thtục                              thông tục

tng                                  tục ngữ

tin                                   tin học

tín                                   mê tín

toán                               toán học

tôn                                 tôn giáo

tục                                  tiếng tục

văn                                 văn chương

vd                                   vô danh

vi                                     vi tính

y                                      y học

 

2.        Những chữ được viết hoa:

 

AVThu                            Anh Việt Thu (nhạc sĩ)

BCD                                Bạch Cư Dị (thi sĩ đời Đường)

BCKN                             Bích Câu Kỳ Ngộ (truyện thơ)

BĐG                                Bạch Đằng Giang (bài hát)

BHTQ                             Bà Huyện Thanh Quan (thi sĩ)

BK                                   Bích Khê Lê Quang Lương (thi sĩ)

BNT                                Bần Nữ Thán (ngâm khúc)

CBN                                Cao Bá Nhạ (thi sĩ)

CHXHCNVN                  Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (tên nước)

CMT                               Chu Mạnh Trinh (thi sĩ)

CONK                             Cung Oán Ngâm Khúc

CPN                                Chinh Phụ Ngâm

CQ                                  Cống Quỳnh (danh sĩ thời Lê – Trịnh)

CTT                                 Cung Trầm Tưởng (thi sĩ)

DK                                   Dương Khuê (thi sĩ)

DQS                                Doãn Quốc Sỹ (văn sĩ)

DTT                                Dương Thiệu Tước (nhạc sĩ)

ĐC                                  Đoàn Chuẩn (nhạc sĩ)

ĐDA                                Đào Duy Anh (học giả, nhà biên soạn từ điển)

ĐH                                  Đinh Hùng (thi sĩ)

ĐNQSDC (QSDC)          Đại Nam Quốc sử Diễn ca (truyện thơ)

ĐT                                   Đào Tiềm (thi sĩ, nhà tư tưởng thời Đông Tấn)

ĐTĐ                                Đoàn Thị Điểm (thi sĩ)

ĐTT                                Đặng Trần Thường (tướng của Vua Gia Long)

GHC                                Gia Huấn Ca

HC                                  Hoàng Cầm (thi sĩ)

HCT                                Hán Cao Tổ (vua Trung Hoa)

HL                                   Hữu Loan (thi sĩ)

HLân                              Hùng Lân (nhạc sĩ)

HMT                               Hàn Mạc Tử (thi sĩ)

HP                                   Hà Phương (ca sĩ)

HT                                   Hà Triều (nhà soạn kịch)

HTT                                Hoàng Thi Thơ (nhạc sĩ)

HVP                                Hòn Vọng Phu (nhạc phẩm)

K                                     Kim Vân Kiều truyện

KD                                  Kim Dung (văn sĩ Trung Hoa)

KT                                   Kinh Thánh Thiên Chúa Giáo

LDN                                Lý Diên Niên (thi sĩ Trung Hoa)

LL                                    Lữ Liên (nhạc sĩ, ca sĩ)

LM                                  Lam Minh (nhạc sĩ)

LNH (NH)                       Lê Ngọc Hân (vợ vua Quang Trung, thi sĩ)

LQĐ                                Lê Quý Đôn (nhà bác học, nhà thơ thời Lê trung hưng)

LT                                    Lê Thương (nhạc sĩ)

LTT                                 Lê Thánh Tôn (vua, thi sĩ)

LVĐ                                Lê Văn Đức (nhà biên soạn từ điển)

LVT                                 Lê Văn Thu (tác giả từ điển)

LVTiên                           Lục Vân Tiên (truyện thơ)

MK                                 Minh Kỳ (nhạc sĩ)

NB                                  Nguyễn Bính (thi sĩ)

NBH                               Nguyễn Bá Học (nhà giáo, văn sĩ)

NBK                                Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (nhà tiên tri, nhà thơ)

NBiểu                             Nguyễn Biểu (tướng nhà Trần)

NC                                  Nhã Ca (văn sĩ)

NCT                                Nguyễn Công Trứ (thi sĩ)

NCX                                Nửa Chừng Xuân (truyện)

ND                                  Nguyễn Du (thi sĩ)

NĐC                               Nguyễn Đình Chiểu (thi sĩ)

NĐM                              Nhị Độ Mai (truyện thơ)

NgH                                Nguyên Hồng (văn sĩ)

NGT                                Nguyễn Gia Thiều (thi sĩ)

NgT, NTuan                   Nguyễn Tuân (văn sĩ)

NK                                  Nguyễn Khuyến (thi sĩ)

NMG                              Nguyễn Mộng Giác (văn sĩ)

NNP                               Nguyễn Nhược Pháp (thi sĩ)

NT                                  Nguyễn Trãi (chính trị gia, thi sĩ)

NTH                                Nguyễn Thái Học (liệt sĩ)

NTM                               Ngô Thuỵ Miên (nhạc sĩ)

NVĐ                               Nguyễn Văn Đông (nhạc sĩ)

NVV                                Nguyễn Văn Vĩnh (văn sĩ, nhà báo)

PD                                   Phạm Duy (nhạc sĩ)

PK                                   Phan Khôi (văn sĩ)

PT                                   Phan Trần (truyện)

PTT                                 Phạm Thiên Thư (thi sĩ)

PVT                                 Phan Văn Trị (thi sĩ)

QATK                              Quan Âm Thị Kính (truyện thơ)

QSDC                             (Đại Nam) Quốc sử Diễn ca (truyện thơ)

SN                                   Sơn Nam (văn sĩ)

TC                                   Tấm Cám (truyện cổ tích)

TCN                                Trước Công nguyên

TCS                                 Trịnh Công Sơn (nhạc sĩ)

TD                                   Trần Dần (thi sĩ)

                                  Tự Đức (vua, thi sĩ)

TĐà                                Tản Đà (thi sĩ)

ThH                                Thôi Hiệu (thi sĩ Trung Hoa)

TH                                   Trịnh Hưng (nhạc sĩ)

ThT                                 Thanh Tịnh (văn sĩ)

TK                                   Trương Kế (thi sĩ Trung Hoa)

TKTCG                            Thánh kinh Thiên Chúa giáo

TM                                  Tú Mỡ (thi sĩ)

TQ                                  Trạng Quỳnh (danh sĩ)

TQK                                Trần Quang Khải (tướng đời Trần)

TrT                                  Trinh Thử (truyện thơ)

TSLT                               Thạch Sanh Lý Thông (truyện thơ)

TT                                   Thâm Tâm (thi sĩ)

TTT                                 Tôn Thọ Tường (thi sĩ)

TTX                                 Trần Tế Xương (thi sĩ)

VC                                   Văn Cao (nhạc sĩ)

VD                                  vô danh

VH                                  Vương Hàn (thi sĩ Trung Hoa)

VĐL                                Vũ Đình Liên (thi sĩ)

VHC                                Vũ Hoàng Chương (thi sĩ)

VHS                                Vương Hồng Sển (nhà khảo cứu)

VNCH                             Việt Nam Cộng Hoà (tên nước)

VNDCCH                        Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (tên nước)

VP                                   Văn Phụng (nhạc sĩ)

VTP                                 Vũ Trọng Phụng (văn sĩ)

YV                                   Y Vân (nhạc sĩ)

 


 

ĐÔI DÒNG VỀ NHÓM BIÊN SOẠN

 

Bác sĩ Lê Văn Thu:

Sinh năm 1945 tại xã Mai Động, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Di cư vào Sài Gòn năm 1954. Tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa tại Đại học Y khoa Sài Gòn năm 1973. Phục vụ tại Bệnh xá Sư đoàn 3 Bộ binh, Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, Quảng Nam, từ cuối năm 1973 cho tới cuối tháng Ba năm 1975. Tù cải tạo tại miền Trung từ 1975 tới 1976. Phục vụ tại Phòng Y tế Quận 11 thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1976 tới năm 1979. Vượt biển qua trại tị nạn Pulau Bidong, Mã Lai, năm 1979. Định cư tại Tiểu bang Washington, Hoa Kỳ, từ năm 1980. Lấy lại bằng Y khoa Bác sĩ tại tiểu bang này năm 1984. Mở phòng mạch hành nghề tư tại Thành phố Tacoma, Tiểu bang Washington, từ năm 1984, tới năm 2013 thì về hưu. Sáng lập và điều hành Hội Văn hoá Lạc Việt tại Tacoma vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990 để sinh hoạt phục vụ về văn hoá văn nghệ cho đồng hương, đồng thời dạy Việt ngữ cho các em nhằm cố gắng bảo tồn ngôn ngữ Việt nơi thế hệ thứ hai. Có một số bài viết về văn hoá, văn nghệ và chuyên môn y khoa đăng tải trên các báo chí Việt ngữ tại Tp Seattle (Tb Washington) và Tp Houston (Tb Texas) và được các mạng truyền thông trong và ngoài nước đăng lại.

 

Dược sĩ Nguyễn Hiền:

Sinh năm 1951 tại Huế. Lớn lên tại Sài Gòn. Tốt nghiệp Dược sĩ tại Đại học Dược khoa Sài Gòn năm 1973, sau đó phục vụ trong Quân lực VNCH cho tới cuối tháng tư 1975. Sau thời gian cải tạo, làm cho hiệu thuốc quốc doanh ở Tp. Hồ Chí Minh. Vượt biển năm 1980 và định cư tại Hòa Lan cũng trong năm này. Tốt nghiệp Dược sĩ tại Đại học Groningen năm 1987. Làm trong ngành sản xuất dược phẩm tại nhiều công ty dược phẩm quốc tế cho tới ngày về hưu (2016). Cư ngụ tại tỉnh Utrecht, Hoà Lan. Có truyện ngắn đăng trên các tạp chí văn học, nhiều bài viết về văn hóa văn học và khoa học, có một số tác phẩm và dịch phẩm đã xuất bản. Đồng sáng lập Hiệp hội Cái Đình tại Hòa Lan (năm 1993) và là chủ tịch hội từ ngày thành lập.