Nói chuyện trên đài Saigon Houston ngày 26-10-2023
Đề tài: Giới thiệu quyển Từ Điển Việt
Ngữ Phổ Thông và hai soạn giả là Bác sĩ Lê Văn Thu và Dược sĩ Nguyễn Hiền.
Quý Linh (QL):
Thưa quý thính giả,
Đây
là chương trình Văn Hóa Việt do Quý Linh thực hiện trên đài Saigon Houston mỗi
tháng một lần vào ngày thứ năm của tuần lễ thứ tư.
Thưa
quý thính giả, ngôn ngữ là một nét văn hóa đặc biệt trong di sản phi vật chất của
mỗi dân tộc. Không phải chỉ có núi non ruộng đồng trên dải đất hình chữ S mới
là gia tài của tổ tiên để lại, mà tiếng Việt cũng là một phần trong di sản ấy,
“của khí thiêng non sông Hồng-Lạc đã chung đúc ra cho ta” như nhà thơ Đông-Hồ đã viết. (“Gia-đình giáo-dục
ký”, Tạp chí Nam-Phong tháng 3 năm 1927)
Đối
với người Việt tha hương, sử dụng tiếng Việt thường xuyên, giữ gìn tiếng nói của
dòng giống Việt, truyền dạy lại cho con cháu là những phương cách bảo tồn văn
hóa.
Hôm
nay chúng tôi rất hân hạnh được mời hai vị soạn giả quyển Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông là Bác sĩ Lê Văn Thu và Dược sĩ Nguyễn
Hiền đến với chương trình Văn Hóa Việt để chia sẻ cùng quý vị đồng hương về sự
thực hiện và hoàn thành quyển Từ Điển Việt
Ngữ Phổ Thông.
Xin
mời BS. Lê Văn Thu và DS. Nguyễn Hiền lên tiếng chào quý thính giả của đài
Saigon Houston.
BS. Thu: Kính chào Nhà biên khảo Ngô Thị Quý Linh và quý thính giả của Đài Phát thanh Saigon
Houston. Xin chào DS. Nguyễn Hiền.
DS. Hiền: Cũng xin kính chào chị Ngô Thị Quý
Linh và quý vị thính giả của Đài Phát thanh Saigon Houston. Chào BS. Lê Văn
Thu.
QL: Xin kính chào BS. Thu và DS. Hiền.
1.
QL: Thưa
BS. Lê Văn Thu và DS. Nguyễn Hiền, đây là lần đầu tiên chúng tôi hân hạnh được
quý vị nhận lời hội thoại trong chương trình Văn Hóa Việt. Trước khi bắt đầu đề
tài hôm nay, xin mời nhị vị dành cho quý thính giả một vài phút để nói về tiểu
sử của quý vị.
Xin
kính mời BS. Lê Văn Thu lên tiếng.
a. BS. Thu:
Tôi xin được tự giới thiệu, tôi tên Lê Văn
Thu, tốt nghiệp Đại học Y khoa Sài gòn năm 1973, và cũng là một quân y sĩ hiện
dịch, đã phục vụ tại Bệnh xá Sư đoàn 3 BB, Quân Lực VNCH, ở Quảng Nam, từ cuối
năm 1973 tới cuối tháng 3 năm 1975. Là tù binh tại các trại cải tạo ở miền
Trung VN từ đầu tháng Tư 1975 (trước khi Sài Gòn thất thủ) đến giữa năm 1976. Sau
khi được trả tự do, về làm việc cho Phòng Y tế Quận 11, Thành phố HCM, từ 1976
tới 1979. Vượt biên bằng thuyền tới trại tị nạn Pulau Bidong, thuộc Mã Lai, giữa
tháng 5 năm 1979. Định cư tại thành phố Seattle, Tiểu bang Washington, từ tháng
8 năm 1980 với diện cựu quân nhân. Học và lấy lại bằng bác sĩ y khoa của Mỹ sau
4 năm, và mở phòng mạch hành nghề tư tại thành phố Tacoma, Tb Washington, chăm
sóc bệnh nhân đủ mọi sắc tộc, cả bản địa lẫn di dân, từ giữa năm 1984 tới gần
cuối năm 2013 thì về hưu.
QL:
Xin cảm ơn BS. Thu. Chúng tôi xin kính mời DS. Nguyễn Hiền.
b. DS. Hiền:
Còn
tôi tên Nguyễn Hiền. Tôi biết bác sĩ Lê Văn Thu từ khi chúng tôi còn là Sinh
viên Quân Y, cùng khóa với nhau, tức là cùng ra trường năm 1973, nhưng tôi là
Dược sĩ. Sau khi ra trường, tôi phục vụ trong sư đoàn 9 Bộ Binh, đóng ở Vĩnh
Long. Sau khi miền Nam mất vào tay Cộng sản, tôi cũng như các sĩ quan khác bị
đi cải tạo. Cuối năm 1977 tôi được thả, khi ấy như quý vị cũng biết, miền Nam rất
thiếu chuyên viên, tôi xin được một chỗ trong một hiệu thuốc quốc doanh ở Sài
Gòn. Tới năm 1980 tôi tìm được một tổ chức vượt biên và may mắn chiếc ghe được
tàu Hòa Lan vớt, nên tôi nhanh chóng được định cư ở quốc gia này. Khi đó Hòa
Lan đánh giá bằng dược sĩ của Việt Nam Cộng Hòa chỉ tương đương với 2 năm đầu đại
học Dược khoa ở đây, vì vậy tôi phải trước hết học tiếng Hòa Lan, sau đó theo
tiếp học trình chính thức của họ, tức là học thêm 3 năm nữa để lấy được bằng
doctorandus Dược năm 1985, bằng này cao hơn Master. Phải có bằng này rồi, mới
được học thêm 2 năm nữa để lấy bằng Dược sĩ. Vì tôi đi chuyên ngành Kỹ thuật Dược
nên sau đó làm trong các công ty sản xuất dược phẩm cho tới tuổi về hưu, năm
2016.
2.
QL:
Thưa quý anh, quý anh một nguời là y sĩ, một người là dược sĩ. Cả hai đều là những nhà chuyên môn trong ngành Y và Dược. Xin
nhị vị soạn giả cho biết lý do nào nhị vị nghĩ đến việc soạn từ điển là một công
trình có tính cách văn học?
QL: Xin mời BS. Thu lên tiếng trình bày
với quý thính giả.
a. BS. Thu:
Chúng
tôi nghĩ tới việc soạn một cuốn từ điển Việt ngữ phổ thông từ đầu thập niên
2010, khi mà chúng tôi có được các cuốn từ điển của các soạn giả của miền Nam
như ông Đào Duy Anh, Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, cũng như các cuốn từ điển của
các soạn giả ở trong nước xuất bản sau này, như của nhóm Hoàng Phê, ông Nguyễn
Lân, và một vài vị khác. Khi đọc, chúng tôi thấy các cuốn ấy đều có rất nhiều
ưu điểm, nhưng cũng không thiếu những khuyết điểm. Có một số từ bị định nghĩa
chưa chính xác, có khi sai lạc, hoặc là do ở các thập niên trước 1970, việc tiếp
cận với các nguồn thông tin chưa dễ dàng, hoặc là do tâm lý soạn giả bị ảnh hưởng
quá sâu đậm bởi khuynh hướng chính trị đảng phái, nên một số từ bị định nghĩa với
nghĩa khác với nghĩa gốc của nó. Vì thế,
chúng tôi nghĩ tới việc soạn một cuốn từ điển mới hơn, đầy đủ hơn, với các định
nghĩa chính xác và trung thực hơn, để giúp mọi người, từ giới học thuật tới
sinh viên và học sinh, ở trong nước cũng như ở ngoài nước, có nguồn ngôn ngữ khả
tín để tra cứu mỗi khi cần.
Thế
rồi, tới năm 2015, vào dịp kỷ niệm 40 năm tị nạn, để soạn bài vở cho cuộc triển
lãm ở Giáo xứ Công giáo Việt Nam vùng Seattle, chúng tôi có cơ hội tra cứu các
tài liệu trên các mạng xã hội, và thấy rằng con số di dân người Việt trên khắp
thế giới đã lên tới hơn 5 triệu người, trong đó hơn 2 triệu người ở Mỹ, gần 500
ngàn người ở Úc, 350 ngàn người ở Pháp, hơn 250 ngàn người ở Canada, hơn 200
ngàn người ở Đức, và hơn 100 ngàn người ở Anh, không kể hàng chục ngàn người ở
nhiều nước khác. Trong số hơn 2 triệu người ở Mỹ, có đến hơn một nửa thuộc
thành phần trẻ, trong đó 37% được sinh ra tại Việt Nam. Nhìn các con số này,
chúng tôi thấy việc hoàn thành cuốn từ điển càng trở nên cấp bách, và thôi thúc
chúng tôi phải cố gắng hơn nữa, vì không muốn thành phần trẻ ấy quên mất tiếng
Việt, hoặc hiểu sai lạc ý nghĩa của tiếng Việt, nhất là đa số các em được sinh
ra và lớn lên sau năm 1975, nếp nghĩ phần nào đã bị tha hoá và biến chất bởi nền
giáo dục xã hội chủ nghĩa.
QL:
Chúng tôi xin cảm ơn BS. Thu và xin mời DS. Hiền.
b. DS. Hiền:
Thưa chị cùng quý vị thính giả, việc làm cách nào
để lưu giữ những từ ngữ có nguy cơ bị mai một do các nguyên nhân khách quan và
chủ quan là điều mà tôi đã suy nghĩ từ mấy chục năm nay, khi chính tôi cũng
nhiều lúc gặp bối rối khi viết, vì tôi thường xuyên viết truyện và bài đăng báo.
Sau khi Việt Nam bị chia đôi bởi hiệp định Genève, tiếng Việt ở hai miền đã
phát triển theo hai hướng khác nhau. Hiện tượng bên này tránh dùng từ ngữ của
bên kia đưa đến hệ quả tất nhiên là sau khi đất nước thống nhất sẽ phải có một
cuộc lọc lựa từ ngữ, mà sự lọc lựa này đương nhiên chịu rất nhiều áp lực của
bên thắng.
Như vậy có nghĩa là rất nhiều từ ngữ trước kia
‘phổ thông’ ở miền Nam, thì nay có nguy cơ rất lớn là chúng sẽ bị mai một đi.
Người ta dần dà sẽ nói triển khai thay vì khai triển, đảm bảo thay vì bảo đảm,
cửa hàng thay vì tiệm, xe hơi không còn nữa, chỉ còn ô-tô v.v.. Rất hiếm có trường
hợp một từ miền Nam trở thành từ phổ thông, nhưng đó là vì lý do khác. Như
‘siêu thị’, vì miền Bắc trước kia không có, ‘trực thăng’ vì Việt Nam hiện thời
cũng đã có, do đó họ không muốn dùng từ ‘tàu bay lên thẳng’ mang tính miệt thị
‘nôm na là cha mách qué’, kiểu những từ thí dụ như ‘Nhà Trắng’ (thay vì Tòa
Bạch Ốc biểu tả sự kính trọng) hoặc ‘giặc cái’.
Nhiều từ ngữ được gán thêm một hoặc nhiều nghĩa
mới. ‘Xử lý’ chẳng hạn. Hay ‘nhất định’ trong câu: ‘có một số kinh nghiệm nhất
định’, v.v. Hoặc do nhu cầu chính trị, nghĩa của một số từ đã bị chính trị hóa
theo hướng do nhà nước chỉ đạo để có thể qua đó tuyên truyền nhận thức của họ.
Tiếng Việt (ở đây tôi muốn nói chữ quốc ngữ) là
một ngôn ngữ rất trẻ. Nó sẽ thay đổi liên tục và rất nhanh. Nhưng thay đổi theo
lối tôi thấy hiện nay thì rất đau lòng. Ở hải ngoại, nhiều bậc cha mẹ sẽ gặp
lúng túng khi phải giải thích cho con cháu. Tìm trong từ điển thì không thấy,
hoặc có trong từ điển mà thấy nghĩa không phải như mình nghĩ thì cũng không
biết phải làm sao.
Tuy mang ưu tư như vậy nhưng lúc đó tôi không
biết giải quyết cách nào. Cũng có lúc tôi nghĩ đến việc kêu gọi làm một cuốn từ
điển, nhưng trong hoàn cảnh sinh sống của tôi nơi đất nước Hòa Lan nhỏ bé,
chuyện đó coi như vô hy vọng. Bởi thế, khi nhận được lời kêu gọi của nhóm biên
soạn từ điển, qua anh bác sĩ Lê Văn Thu, mà chúng tôi vốn đã biết nhau từ những
năm còn là sinh viên quân y, tôi đã sốt sắng nhận lời, vì thấy đây cũng là một
dịp rất tốt để tôi có thể trau giồi thêm tiếng Việt.
3.
QL:
Thưa quý thính giả, quyển Từ điển Việt Ngữ
Phổ thông rất dày, có đến gần 1300 trang và trên 62 ngàn từ. Đây là một
công trình đòi hỏi nhiều thời gian, kiên nhẫn và tìm tòi sâu rộng, rất đáng
khâm phục, nhất là chỉ có hai soạn giả. Xin quý anh cho biết tiến trình và phân
công trong việc soạn thảo quyển từ điển này.
Xin mời BS. Thu.
a. BS. Thu:
Thoạt
khởi đầu vào năm 2011, chỉ có mình tôi soạn. Tới đầu năm 2018 thì xảy ra việc một
số quân y sĩ đàn anh trong Diễn đàn Cựu SVQY, trong đó có anh Bác sĩ Nguyễn
Đương Tịnh, bút hiệu Trúc Cư, định cư tại Pháp, vừa là nhà văn, vừa là nhà biên
khảo thơ Đường, có ý định làm một cuốn từ điển Việt-Pháp-Anh, nhằm duy trì và
phổ biến tiếng Việt trong sáng cho các thế hệ con cháu, đặc biệt là cho các
cháu đang định cư hay du học ở nước ngoài. Thấy anh ấy gặp khó khăn trong việc
chọn từ Việt để biên dịch, tôi bèn ngỏ ý giao phần Việt ngữ mà tôi đã và đang
soạn để các anh ấy dùng làm nguồn từ, coi như tôi phụ trách phần Việt ngữ, các
anh khác phụ trách phần Pháp và Anh ngữ. Anh Tịnh rất mừng và chấp nhận ngay
sau khi xem qua bản thảo của tôi. Công việc được các anh khác hỗ trợ và góp sức:
anh BS Trần Văn Tích, một nhà biên khảo rất uyên bác về Hán ngữ, định cư ở Đức,
anh Nguyễn Đức Liên, Vũ Chấn, Nguyễn Văn Tạ và Trương Minh Cường, rất giỏi về
Anh ngữ, định cư tại Mỹ. Thỉnh thoảng, chúng tôi cũng được GS Trần Huy Bích, một
giáo sư tiến sĩ của UCLA, rất uyên thâm về Hán học, BS kiêm nhà văn, nhà thơ Nguyễn Văn Bảo, bút hiệu
Con Cò, và BS Nguyễn Hy Vọng, một nhà ngữ học đã có một số sách biên khảo được ấn
hành, trong đó phải kể tới cuốn Từ Điển Nguồn Gốc Tiếng Việt, giúp ý kiến trong
việc tra cứu nghĩa của các từ. Ngoài ra, chúng tôi còn được các vị đàn anh
khác, như anh BS Hà Ngọc Thuần, BS Nguyễn Ngọc Khôi trên Diễn đàn Cựu SVQY, các
bạn cùng lớp như BS Hầu Mặc Hưng và BS Nguyễn Mạnh Tiến, thỉnh thoảng góp ý hoặc
bổ sung từ ngữ. Chúng tôi rất trân trọng sự giúp đỡ và đóng góp ý kiến của các
anh ấy.
Trở
lại việc biên soạn cuốn từ điển Việt Ngữ, cũng trong thời gian bắt đầu việc
biên soạn cuốn từ điển tam ngữ nói trên, tôi được biết anh DS Nguyễn Hiền, định
cư ở Hoà Lan, qua việc anh ấy và tôi cùng tham gia vào công tác hiệu đính cho tờ
báo mạng của Diễn đàn Cựu SVQY, tôi bèn mời anh ấy giúp tôi phần hiệu đính cho
bản thảo cuốn từ điển. Điều tình cờ thú vị là anh ấy và tôi cùng xuất thân khoá
20 QYHD năm 1973, anh ấy bên Quân Dược, còn tôi bên Quân Y.
Đến
tháng 9 năm 2018, thấy việc soạn thảo còn lâu mới có thể xong nếu tôi làm một
mình, tôi liền đề nghị anh Hiền soạn cho một số vần. Qua công tác soạn thảo và
hiệu đính, chúng tôi làm việc với nhau rất hài hoà, ăn ý về đủ mọi lãnh vực của
ngôn ngữ, nên công việc trôi chảy thuận lợi, và vì thế, cuốn từ điển đã được
trình làng đầu tháng Tám vừa qua.
(Từ
lúc anh Hiền nhận cộng tác với tôi, anh Hiền và tôi là hai thành viên phụ trách
phần Việt ngữ của Nhóm Biên soạn từ điển Việt Pháp Anh. Việc soạn cuốn từ điển
này hiện vẫn được tiến hành, tuy có hơi chậm).
Chưa
hài lòng với kết quả hiện tại, chúng tôi vẫn đang rà soát lại cuốn từ điển ấn bản
2023 để cố gắng sửa chữa những sai sót, bổ sung các từ, đặc biệt là tăng cường
phần định nghĩa, giải thích các từ thuộc về khoa học tự nhiên cách khoa học hơn,
để độc giả hiểu đúng đó là con gì, cây gì, mỗi khi muốn tìm hiểu về chúng.
QL:
Xin cảm ơn BS. Thu đã chia sẻ. Xin mời DS. Hiền lên tiếng.
b. DS. Hiền:
Sự phân công trong việc soạn thảo cuốn từ điển
thì anh bác sĩ Thu đã vừa trình bày rồi. Tôi nhập cuộc khi anh Thu đã biên soạn
được khoảng một nửa. Qua những bàn thảo trước khi bắt tay vào việc và xem những
vần anh Thu đã làm, tôi thấy anh đã nghiên cứu rất kỹ về phương pháp biên soạn,
đã đề ra một số nguyên tắc căn bản. Vì thế, đại thể chúng tôi đã thống nhất với
nhau về cách tiến hành công việc theo những nguyên tắc đó. Còn trong tiến trình
soạn thảo, nếu thấy có những gì cần bổ khuyết thì chúng tôi sẽ bàn với nhau để
đi đến quyết định chung. Thí dụ như khi nào viết i, khi nào viết y, hay dấu
giọng (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng) phải đặt ở đâu, v.v.. Đây là những vấn đề
không dễ giải quyết nhưng chúng tôi đã tìm ra được một số nguyên tắc mà theo
chúng tôi nhờ đó đã vượt qua được hầu hết những trở ngại trong việc lựa chọn. Như
anh Thu vừa trình bày, chúng tôi có một nhóm biên soạn, phần lớn là các vị
trong y giới, tôi phải nói là rất thán phục kiến thức của những vị này bên ngoài
lãnh vực y khoa, các vị đó đã cho chúng tôi rất nhiều ý kiến đóng góp, bổ túc,
bổ nghĩa, và nhất là giải thích tường tận những từ cổ hoặc điển tích ít người
biết.
Chúng tôi bắt đầu bằng một danh sách chính, gồm
những từ ‘chắc chắn được coi là phổ thông’. Công trình lọc lựa thành danh sách
này cũng được chị Hương Mai, là vợ của anh Thu, giúp cho rất nhiều. Sau đó thì
tùy theo, chúng tôi chia nhau làm từng vần một. Từ danh sách các từ gốc này
chúng tôi sẽ bổ túc thêm những từ chúng tôi biết được, qua tham khảo các cuốn
từ điển lớn xưa nay, các từ điển chuyên ngành, sách về các bộ môn khoa học
chính xác và khoa học xã hội, qua sách vở báo chí, qua mạng internet…
Trong việc biên soạn, chúng tôi tra cứu nghĩa,
sắp xếp thứ tự các nghĩa, bắt đầu từ nghĩa chính hoặc nghĩa cụ thể, cho đến
những nghĩa phụ và nghĩa bóng. Với những từ địa phương chúng tôi cố gắng cho
thí dụ bằng những câu phù hợp với những từ đó. Với những từ vay mượn chúng tôi
cố gắng tìm từ gốc. Những tên cây cỏ thú vật thì chúng tôi cho thêm tiếng
Latinh để người ta có thể tra cứu thêm.
Khi đã thành bản sơ thảo, chúng tôi chuyển cho
nhau để bổ túc, qua ba bốn lượt hiệu đính nội dung lẫn hình thức, chúng tôi
chấp nhận bản chính thức. Thời gian hơn 12 năm tưởng là dài, nhưng thực sự nó
qua rất nhanh. Tiếng Việt có tổng cộng 29 vần, tính trung bình mỗi năm chúng
tôi phải làm 2 vần rưỡi. Có những vần rất lớn, như vần T chúng tôi đã phải mất
hơn một năm cho việc biên soạn, vần N cũng phải mất khoảng một năm.
4. QL: Thưa quý anh, trong vô số chữ trong
kho tàng chữ nghĩa tiếng Việt, chắc khó mà có thể để hết các chữ đã có từ xưa đến
nay vào trong một quyển từ điển. Xin quý anh cho thính giả được biết nhị vị soạn
giả quyển Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông
đã đặt ra những tiêu chuẩn như thế nào trong
việc chọn từ ngữ.
Chúng tôi xin mời BS. Thu trình bày.
a. BS. Thu:
Thực
ra, chúng tôi đã băn khoăn rất nhiều khi nghĩ đến vấn đề đặt ra tiêu chuẩn để
chọn từ. Mình là người quốc gia, sống ở nước ngoài, hằng ngày đọc sách báo của
người quốc gia viết trước và sau 1975, các từ ngữ trong các sách báo ấy đã như
nằm sẵn trong tiềm thức, tiêu chuẩn chọn từ không có gì là khó cả.
Bản
thân tôi đã từng bị tù trong các trại cải tạo, rồi làm việc ba năm cho chế độ mới
sau khi được thả về, tôi đã có cơ hội tiếp thu các từ mới, đúng ra là từ cũ
nhưng được người miền Bắc bên kia sông Bến Hải dùng nhiều và mình chưa bao giờ
nghe nên tưởng là từ mới, tôi quen dần với văn phong và từ ngữ của các nhà văn,
nhà báo xã hội chủ nghĩa, nên đối với tôi, chúng không có gì lạ lẫm cả. Nhưng
vài chục năm gần đây, chúng ta lại thấy xuất hiện nhiều từ rất mới, nghe thấy lạ
tai, khó hiểu, thường được dùng cách thoải mái trên báo, đài trong nước. Sau một
thời gian tìm hiểu thì tôi thấy rất nhiều từ được dịch từ tiếng Anh, đặc biệt
là các từ về vi tính. Tôi cũng hiểu những từ ấy không có gì là sai hay lạc ra
ngoài khuôn mẫu ngôn ngữ Việt, chẳng qua là người ta dùng không đúng chỗ, đúng
lúc, đôi khi lại dùng với tính cách giễu cợt, nên chúng trở thành kỳ quặc. Tôi bàn
với Dược sĩ Nguyễn Hiền và đi đến quyết định, với tư cách là những người biên
soạn từ điển, phải cho tất cả các từ ấy vào sách của mình, và cho nó những định
nghĩa chính xác nhất, đồng thời cho các thí dụ để người ta hiểu đúng nghĩa và biết
cách dùng.
Như
vậy, trong từ điển của chúng tôi, nó có cả các từ thật xa xưa (gọi là từ cũ hay
xưa), có những từ có gốc là Hán, Pháp và Anh ngữ, có những từ được dùng phổ
thông tại hai miền Nam hoặc Bắc trước và sau 1975, và có cả những từ mới phát
sinh sau này, đặc biệt là các từ được dịch từ Anh ngữ.
QL:
Xin cảm ơn BS. Thu. Chúng tôi xin mời DS. Hiền lên tiếng.
b. DS. Hiền:
Nói về tiêu chuẩn chọn từ ngữ thì đây là một vấn
đề khá phức tạp. Tiếng Việt là một sinh ngữ, nó thay đổi theo thời gian, đó là
điều đương nhiên. Nhưng tiếng Việt không là một sinh ngữ hiểu theo nghĩa thông
thường, do hoàn cảnh đất nước và yếu tố chính trị. Hàng triệu người Việt khi
định cư ở nước ngoài đã mang theo một hành trang văn hóa, bao gồm cả ngôn ngữ.
Họ muốn bảo tồn những gì đã nuôi dưỡng họ, họ trân trọng và tôn thờ những giá
trị văn hóa truyền thống đó và vì thế khó chấp nhận những cái mới, kể cả những
từ ngữ mới, vì ngôn từ cũng phản ảnh văn hóa, nếp sống của một cộng đồng dân
tộc. Vốn từ vựng trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại vì thế chuyển biến chậm
hơn trong nước. Cũng phải nói thêm ở đây là ngôn ngữ cũng được dùng để xác định
cộng đồng mình đang sinh sống trong đó. Nếu trong chiến tranh, ngôn ngữ là một
phương tiện giản dị để phân biệt bạn thù, thì sau chiến tranh ngôn ngữ lại trở
thành phương tiện để phân biệt Quốc-Cộng, bên này bên kia.
Khi biên soạn cuốn từ điển, chúng tôi muốn là
công trình này mang được tính phổ quát, tức là hữu dụng cho tất cả người Việt,
bất kể họ đang cư ngụ ở đâu trên thế giới. Mà thế giới hiện đang tiến rất nhanh
ở tất cả mọi mặt. Điều này cũng có nghĩa là liên tiếp xuất hiện những khái niệm
mới, từ đó đưa đến những từ mới, nhất là ở các lãnh vực chính trị, kỹ thuật, xã
hội… Chuyển một từ mới từ tiếng Anh sang tiếng Việt cũng phải chạy theo với một
nhịp độ khủng khiếp, đến mức dường như người ta có thói quen dùng luôn nghĩa cổ
điển mà không còn có thể để ý xem những từ mới đó trong tiếng Việt có dễ hiểu
không, hoặc giả họ không có thời giờ để suy nghĩ. Nhiều từ mới đã khiến người
Việt ở hải ngoại bối rối đưa đến dị ứng và có khi chê bai. Vài thí dụ: phát triển
bền vững, tên lửa hành trình, mở tài khoản để vào cổng thông tin điện tử, hoặc
dùng từ ‘siêu’ cho tất cả những gì ‘super’ trong tiếng Anh. Mới ba ngày trước
đây (23/10), sau tai nạn giao thông trên đường xa lộ ở Louisiana gây hư hại cho
hơn 150 chiếc xe, báo tiếng Việt khi đăng tin đã dùng từ ‘siêu sương mù’ (dịch
từ ‘super fog’)! Chọn một từ ‘phổ thông’ trong bối cảnh này có nghĩa là cũng
phải có sự tiên liệu xem từ ngữ đó trong tương lai sẽ được đại chúng chấp nhận
hay không. Như trong thí dụ trên, ‘tài khoản’ là dịch từ account trong tiếng
Anh do nhu cầu cấp bách, nhưng khi chúng ta mở account để có thể vào xem hồ sơ
thì không cần phải có ‘tiền’ (tức là tài) trong đó. Có một số người đã dùng từ
‘danh khoản’, nhưng tôi thấy chưa có mấy hy vọng là từ này sẽ được nhiều người
chấp nhận, vì vậy trong cuốn từ điển của chúng tôi chưa có từ này.
5.
QL:
Thực hiện quyển từ điển này là một công trình lớn lao, dài lâu và phức tạp. Quý
anh đã phải dành ra một thời gian cả 12 năm trời để thực hiện. Xin nhị vị soạn
giả cho biết những khó khăn quý anh gặp phải trong khi soạn thảo.
Xin
mời BS. Thu lên tiếng.
a. BS. Thu:
Khó
khăn thì nhiều, chủ yếu là vấn đề phải cân nhắc việc chọn từ để cho vào từ điển.
Có những từ mà một số người quốc gia rất nhạy cảm, cho rằng những từ ấy là của “Việt
Cộng”, nhất định không chấp nhận; ai dùng nó có thể sẽ bị gán cho cái nhãn thân
Cộng! Thế nhưng, đã gọi là từ điển thì phải đầy đủ nguồn chữ để cho các thế hệ
sau tra cứu mỗi khi cần, chúng tôi nghĩ là mình không thể loại bỏ chúng được,
nhưng phải giải nghĩa sao cho đúng để mọi người thấy các từ ấy là tiếng nước
nhà, chứ không phải là từ riêng của chế độ mới!
Lại
có những từ mới quá, đặc biệt là các từ thuộc ngành vi tính, các từ ấy lại được
giới chuyên môn dịch từ tiếng Anh thành tiếng Việt, đúng ra là Hán Việt, như giao
diện, thiết bị, vi xử lý, trình duyệt, v.v., mà chúng tôi lại không chuyên
trong các ngành ấy nên rất khó định nghĩa. Chúng tôi phải vào mạng, tìm đến các
trang về khoa vi tính để đọc xem người ta viết và sử dụng các từ ấy ra sao. Đọc
mà chưa chắc mình đã hiểu vì ngành này vẫn còn non trẻ, thuật ngữ vi tính bằng
tiếng Việt chưa được chọn lọc và viết rõ ràng . Thế là mình phải đọc thêm, đọc mãi,
đọc cả bên tiếng Anh xem họ nói ra sao, từ đó mới dần dần hiểu ra, để rồi tóm tắt
thành một định nghĩa sao cho người không thuộc ngành vi tính cũng có thể hiểu
được.
QL:
Xin mời DS. Hiền lên tiếng.
b. Hiền:
Cuốn từ điển của chúng tôi có tựa là Từ Điển Việt
Ngữ Phổ Thông, tức là một quyển từ điển tập hợp những từ đã và đang được phổ
biến trong mọi giới quần chúng.
Nhưng trên thực tế, như tôi đã trình bày ở trên,
hơn 5 triệu người Việt sống ở nước ngoài có một vốn từ vựng hơi khác những
người Việt trong nước. Trong tương lai, các nhà biên soạn từ điển trong nước sẽ
dần dần loại bỏ một số từ trước đây được coi là phổ thông trong xã hội miền
Nam. Họ sẽ lấy lý do là vì dân chúng không còn dùng nữa nên những từ này không
được coi là ‘phổ thông’. Một số từ có liên quan đến Việt Nam Cộng Hòa hoặc vì
lý do chính trị sẽ được giải thích sao cho hợp với chủ trương chính sách của
nhà cầm quyền, bất chấp lời giải thích đó có hợp lý hay không. Thí dụ như trong
Từ Điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, từ ‘ngụy quyền’ được giải thích là ‘chính
quyền lập ra để chống lại chính quyền hợp pháp của nhân dân’. Lời giải thích
này không đúng, vì trong lịch sử, các triều đại nối tiếp nhau chỉ là sự chiếm
quyền của một nhóm quyền lực mới thành lập. Trong quyển Từ Điển Việt Ngữ Phổ
Thông, chúng tôi giải thích từ ‘ngụy quyền’ như sau: chính quyền của phe giặc
không có chính nghĩa (thường là từ để nhà cầm quyền phe này gọi cách khinh miệt
chính quyền phe bên kia). Một định nghĩa chính xác phải là một định nghĩa không
bị thay đổi theo thể chế chính trị hay hoàn cảnh xã hội.
Thử tưởng tượng sau này, khi tra cứu nghĩa trong
từ điển, những thiếu sót và sai sót như trên sẽ có ảnh hưởng ra sao? Quý vị nên
nhớ rằng cuốn từ điển tiếng Việt phổ thông cuối cùng ở miền Nam được xuất bản
năm 1970. Từ đó tới nay đã hơn 50 năm trôi qua, chúng ta phải chăng vì cuộc
sống mà đã quên việc lưu truyền kho tiếng Việt của mình?
Do đó, để đáp ứng nhu cầu tra cứu của hơn 5 triệu
người gốc Việt đang sinh sống tại nước ngoài, và cho những người sau này muốn
tìm hiểu thêm về lịch sử cận đại, chúng tôi thấy có bổn phận phải tìm cách giữ
những từ có nguy cơ bị xóa bỏ hoặc bị dẫn giải không trung thực. Nói thì dễ,
nhưng làm sao để chúng tôi giữ được tính khách quan là một chuyện khác.
Một khó khăn khác trong việc lựa chọn từ ngữ là
sự cân nhắc giữa từ ‘đúng’ (tôi dùng chữ ‘từ đúng’ nếu xét theo nguồn gốc từ)
và từ đã trở thành phổ thông, được rất nhiều người chấp nhận. Hiện nay có một
cách đánh giá sự phổ thông của một từ là tìm qua Google, bên cạnh sự tìm hiểu
về nguồn gốc của từ đó. Một thí dụ: hai từ ‘giông tố’ và ‘dông tố’, Google tìm
ra hơn 500 ngàn kết quả với ‘giông tố’ và 700 ngàn kết quả với ‘dông tố’. Tìm
hiểu về lịch sử hai từ này, chúng tôi thấy từ đúng phải là ‘dông tố’, nhưng vì
sự quá phổ thông của ‘giông tố’, bắt nguồn từ cuốn tiểu thuyết ‘Giông Tố’ của
Vũ Trọng Phụng, chúng tôi đã đưa cả hai từ vào trong cuốn từ điển. Tuy nhiên,
từ đơn ‘giông’ không có trong từ điển của chúng tôi, vì chúng tôi nhận thấy từ
‘giông’ này không thể coi là một từ phổ thông được.
Trong ngữ học, có một ngành gọi là ngành Từ Điển
học (lexicography), ngành này chuyên nghiên cứu về cách biên soạn từ điển. Trên
thế giới có nhiều nhà từ điển học nổi tiếng như Noah Webster (Hoa Kỳ), Pierre
Larousse (Pháp), Johan Hendrik van Dale (Hòa Lan)… mà tên tuổi đã gắn liền với
những bộ từ điển mẫu mực. Việt Nam cũng có những nhà từ điển học như Đào Duy
Anh, Thiều Chửu, Hoàng Phê, v.v.. Rất tiếc là những sách dạy về bộ môn này rất
khó tìm, tuy nhiên, với một số kiến thức cơ bản, tuy còn hạn hẹp, nhưng chúng
tôi cũng đã cố gắng đặt bước khởi đầu và sự thực chúng tôi rất hãnh diện khi
nhìn lại thành quả đã đạt. Tôi hy vọng là sau khi quyển từ điển này được phổ
biến, chúng tôi sẽ nhận được những đóng góp cho lần tái bản, hoặc có người nào
đó hiểu được sự cần thiết phải có một cuốn từ điển tiếng Việt mà tiếp nối công
việc duy trì tiếng Việt cho tới khi hai dòng ngôn ngữ và văn hóa trong và ngoài
nước có thể gặp nhau.
6.
QL:
Thưa quý anh, đã hơn một trăm năm nay, từ khi có quốc-ngữ, đã có rất nhiều quyển
từ điển tiếng Việt được xuất bản. Mỗi quyển có những đặc điểm riêng tùy theo thời
kỳ phát hành hoặc tùy thuộc vào phạm vi chuyên môn. Xin quý anh chia sẻ đến thính
giả đài Saigon Houston những điểm đặc biệt của quyển Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông.
Xin
mời BS. Thu lên tiếng.
a. BS. Thu:
Quyển
từ điển này, như đã nói ở trên, là nơi tập trung hầu như tất cả các từ cũ, thật
xưa, của các chế độ, từ phong kiến, tới thực dân, từ chế độ cộng hoà ở miền Nam
tới chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Nó cũng được bổ sung với các từ mới phát
sinh sau này, kể cả các từ ngoại quốc được du nhập vào xã hội Việt Nam và được
người trong nước chuyển thành ngôn ngữ Việt từ sau ngày Việt Nam mở cửa, đón nhận
nền văn minh và học thuật Tây phương.
Nói
chung, có thể nói quyển từ điển này là quyển có nhiều từ nhất so với mươi cuốn từ
điển Việt ngữ mà chúng tôi hiện sở hữu trong tủ sách gia đình.
QL:
Cảm ơn BS. Thu và xin mời DS. Hiền.
b. DS. Hiền:
Điểm nổi bật mà người tra cứu có thể nhận thấy
ngay, là cách giải thích theo khoa học hiện đại. Thí dụ: từ ‘Xanh’ được các từ
điển giải thích như sau: ‘màu giống lá cây hay nước biển’ (Việt Nam Tự Điển –
Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ), ‘màu như màu lá cây’ (Việt Nam Tự Điển – Khai
Trí Tiến Đức) hoặc ‘có màu của lá cây hay nước biển’ (Từ Điển Tiếng Việt –
Hoàng Phê). Nhưng nếu xét cho kỹ, nước biển có thể từ gần như trong suốt (nhìn
thấy cát sâu vài ba thước hoặc thấy cá bơi dưới đáy) cho tới đen ngòm (những ai
đã đi tị nạn bằng đường biển đều trải qua cảm giác ghê rợn khi nhìn màu này),
và lá cây không hẳn là có ‘màu xanh lá cây’ mà có thể có màu đỏ, màu vàng phớt
màu xanh lá cây v.v. Chúng tôi chọn cách giải thích: Có màu của nước biển, da
trời hoặc của lá cây. Cách giải thích này bao hàm cả màu xanh dương.
Những từ ngữ về luật pháp, xã hội cũng được định
nghĩa theo như cách định nghĩa hiện nay, được giải thích ngắn gọn hơn cho dễ
hiểu nếu có thể được. Chúng tôi quen với cách định nghĩa của khoa học chính
xác, mà từ ngữ dùng trong dân gian có thể khác nhau tùy theo vùng miền, hoặc
gây khó hiểu cho một số người, cho nên chúng tôi cố gắng ghi chú thêm tên khoa
học bằng tiếng Latinh để những người muốn tìm hiểu thêm có thể tra cứu trong
sách chuyên ngành, hoặc xem thêm giải thích trong Wikipedia là cuốn từ điển bách
khoa trực tuyến ngày càng trở nên thông dụng.
Những từ có gốc ngoại quốc cũng được chú thích
thêm về nguồn gốc. Những từ có cách phát âm khác nhau tùy vùng miền cũng được
chúng tôi xem xét cẩn thận, vì không phải chúng có thể lúc nào cũng dùng lẫn
lộn nhau. Thí dụ từ ‘nhơn dân’ cũng giống như ‘nhân dân’ khi dùng với nghĩa
‘toàn thể người dân sống trong một vùng hoặc trong một nước’, nhưng chỉ có ‘ủy
ban nhân dân’ mà không có ‘ủy ban nhơn dân’, vì đây là một từ hành chính.
7.
QL:
Trong quyển từ điển này, chắc thể nào cũng
có phần giải thích những chữ mới vì những chữ mới sẽ là những chữ mà nhiều người
trong chúng ta muốn có được một câu giải thích minh bạch về những chữ mà mình
không biết rõ. Xin nhị vị soạn giả cho vài ví dụ về một số chữ mới trong trong
quyển Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông.
a. BS. Thu:
Không
kể những thuật ngữ mới thuộc lãnh vực vi tính, như cổng thông tin điện tử,
giao diện, truy cập, v.v., chúng tôi cũng đã viết dưới hình thức giải thích,
tranh luận về một số từ, cũ cũng như mới, xin đan cử vài thí dụ: đó là từ ấn
tượng, chữ giờ với ký hiệu H, và cụm từ lang bạt kỳ hồ.
Về
từ ấn tượng: Trong ngôn ngữ Việt trước đây nó chỉ được dùng như một danh
từ, có nghĩa là cảm nhận sâu sắc (nó hàm nghĩa tốt khi đứng một mình, như trong
câu "bức tranh đã tạo được ấn tượng trong lòng người xem"; khi
cần nói rõ nghĩa, người ta phải thêm tính từ "xấu, tốt" sau nó, như
trong câu "sau buổi hoà nhạc, khán thính giả đã có ấn tượng tốt về danh
cầm thủ S., nhưng ấn tượng xấu về ban tổ chức"). Nay, người ta cũng có
thể dùng nó như một tính từ, có nghĩa là “có cảm nhận tốt, gây được sự chú ý với
chiều hướng tốt (td: cuộc trình diễn thời trang hôm nay rất ấn tượng)”; mới
nghe thì tưởng là sai vì nó chưa có trong kho ngôn ngữ Việt, nhưng khi nghĩ tới
từ impressive của tiếng Anh thì rõ ràng là người ta có tính từ, tại sao mình lại
không? Qua việc du nhập các từ của tiếng nước ngoài rồi chuyển dịch thành tiếng
nước nhà, kho ngôn ngữ Việt đã được làm giàu thêm.
Về
chữ giờ với ký hiệu H, ở trên các báo, đài trong nước người ta
dùng ký hiệu h để thay cho chữ giờ viết tắt. Thí dụ 20h30 là 20 giờ 30.
Tôi thấy việc làm ấy không đúng, và tôi đã viết như sau về vần G:
G
dt 1. chữ viết tắt của “giờ” (5 giờ 30 được viết tắt là 5g30; việc
sử dụng chữ h để viết tắt chữ giờ
trong tiếng Việt, thí dụ 5h30, là không nên vì đó là tàn tích của thời kỳ nô lệ
thực dân Pháp, mà người dân thường chưa bao giờ tiếp xúc với tiếng Pháp cũng
không hiểu chữ h này lấy ở đâu ra;
ngoài ra, trong bảng ký hiệu quốc tế cũng không thấy quy định này!);
2. chữ viết tắt của gam, đơn vị đo khối lượng (100g).
Về
cụm từ lang bạt kỳ hồ, đây là một câu được trích trong Kinh Thi, thiên
160, nguyên văn là một bài thơ dài, trong đó có 4 câu “lang bạt kỳ hồ, tái
trí kỳ vĩ, Công
tốn thạc phu, xích tích kỷ kỷ”. Để giải thích cái điển
cố đưa đến việc một nhà thơ làm nên bài thơ này để ca tụng Chu Công thì dài
dòng lắm. Đại khái là Chu Công Đán, một khai quốc công thần đời nhà Chu bên Tàu
bị gièm pha, vu khống bởi Quản Thúc, nhưng khác với kẻ xấu, độc ác như lang
sói, lúc nào cũng lấn cấn trong hành động, tiến thoái lưỡng nan, ông vẫn an
nhiên tự tại, thoải mái trong cuộc sống, không đếm xỉa gì đến những lời vu khống
đó. Nghĩa của cụm từ này nếu giải thích theo điển cố ấy thì hoàn toàn khác với
nghĩa nôm na mà người mình hiểu. Cụm từ lang bạt kỳ hồ có chữ lang bạt,
người mình bèn hiểu là lang thang phiêu bạt, với chữ kỳ hồ, người
mình liền liên tưởng tới giang hồ, như trong đi giang hồ rày đây mai
đó; thế là lang bạt kỳ hồ được chúng tôi định nghĩa “lang
thang phiêu bạt rày đây mai đó không ở yên chỗ nào” theo cách hiểu của
dân gian. Và tôi kết luận: cách dùng cụm từ ‘lang bạt kỳ hồ’ này trong
ngôn ngữ Việt không thể dùng điển cố Trung Hoa mà dẫn giải hay giải thích được.
QL: Xin mời DS. Hiền cho một vài ví dụ
về chữ mới trong quyển từ điển này.
b. DS. Hiền:
Nếu quý vị mở cuốn từ điển của chúng tôi và xem
vần P thì sẽ thấy ngay một chuyển biến quan trọng trong cách phát âm của người
Việt. Tiếng Việt khi xưa chỉ có vần kép Ph, vần P được phát âm như B, thí dụ
‘cái bơm’ có gốc từ tiếng Pháp ‘pompe’, ‘xe ăn banh’ là từ cụm từ ‘en panne’
trong tiếng Pháp, ‘bánh mì ba-tê’ là từ pâté chẳng hạn. Tuy nhiên, những thế hệ
người Việt sau này, qua tiếp cận với Tây phương, đã quen với phụ âm đơn P. Vì
thế, trong từ điển hồi xưa, vần P bắt đầu bằng chữ Pha, thì trong cuốn từ điển
do chúng tôi biên soạn, trước ‘Pha’ là những từ vay mượn từ tiếng nước ngoài
như Pa-tê, Pa-tăng…, và khi hết Ph sẽ là Pin, (bánh) Pía, v.v..
Tiếng Việt có nhiều chữ theo thời gian đã mất hẳn
nghĩa cũ. Từ ‘xử lý’, nghĩa cũ là: cứ lý lẽ và luật lệ mà phân xử, thì bây giờ
‘xử lý’ mang những ý niệm hoàn toàn khác. Trong cuốn từ điển chúng tôi đã liệt
kê ra 5 nghĩa hiện nay được coi là phổ thông, trong đó đương nhiên có cả nghĩa
‘vận hành’ (như khi ta nói ‘bộ xử lý trong máy vi tính’) và nghĩa bóng ‘xử tử,
loại trừ khỏi tổ chức’, nghĩa này đã trở thành
phổ thông sau khi Trần Thư cho ra đời cuốn hồi ký có tựa là ‘Tử Tù Tự Xử Lý Nội
Bộ’.
Một nhóm từ mới, được chúng tôi đưa vào cuốn từ
điển là những từ thuộc lãnh vực tin học, như con trỏ, giao diện, cà thẻ, v.v..
Những từ được giới trẻ dùng nhiều thành quen như ‘chảnh’, ‘phượt’ cũng có trong
cuốn từ điển. Một số từ có thể gây hiểu lầm cũng được chúng tôi chọn, tuy chúng
chỉ xuất hiện trong một giai đoạn nào đó. Một thí dụ của những từ loại này là
sida, khi gặp cụm từ ‘đồ sida’ thì biết đó là hàng viện trợ của cơ quan thiện
nguyện SIDA của Thụy Điển, nó không dính dáng gì đến bệnh AIDS cả (bệnh Aids ở
Việt Nam gọi là Sida, là chữ viết tắt theo tiếng Pháp).
8.
QL: Có người cho rằng hai chữ “tự điển” và “từ điển” cùng một nghĩa. Xin quý
vị soạn giả cho biết quý vị có phân biệt hai từ này không?
a. BS. Thu:
Thực
ra, vấn đề phân biệt từ và tự trong tiếng Việt đã được nhiều vị uyên thâm về
Hán văn bàn cãi rất nhiều.
Theo
tôi hiểu, tự là chữ, mỗi chữ có một âm tiết được cấu tạo bởi nhiều con chữ. Thí
dụ chữ quả có 3 con chữ, đó là q u và ả. Chữ quả này có thể
là từ, vì nó chỉ rõ một vật, đó là trái cây; thế nhưng trong từ công quả
thì quả chưa phải là một từ, nó phải thêm chữ công mới đủ nghĩa là “sức
lực và thì giờ bỏ ra cách tự nguyện cho một công việc của nhà chùa mà không lấy
tiền công”.
Trong
tiếng Hán luôn có một bộ thủ đi kèm một chữ để giúp tiếng đó có đủ nghĩa mà người
ta muốn nói. Thí dụ bộ Nhân. Ngay trong bộ nhân cũng có bộ nhân đứng, bộ
nhân nằm và bộ nhân đi. Căn cứ vào mỗi cách viết của bộ đó mà người ta hiểu
từ ấy có nghĩa gì; chưa có bộ đó thì chưa phải là từ, mà mới chỉ là một chữ.
Còn
trong tiếng Việt thì việc phân biệt quả thật rất khó, và các nhà ngôn ngữ học của
mình vẫn còn đang tranh luận, chưa ngã ngũ.
b. DS. Hiền:
Theo
học giả Đào Duy Anh, TỰ là chữ và TỪ là lời, trong LỜI (từ) đã có CHỮ (tự), tra
cứu về lời (từ) tức cũng tra cứu về chữ (tự). Như vậy, theo quan điểm của ông,“từ
điển là gồm cả tự điển ở trong”. Chúng tôi đồng ý với nhận định này, tuy rằng
hiện nay trên thực tế người ta dùng lẫn lộn cả hai từ, với cùng một nghĩa “cuốn
sách, hoặc bộ sách dùng để tra cứu nghĩa”. Và cũng vì thế, trong cuốn từ điển
này chúng tôi ghi nhận cả hai từ, với cùng một nghĩa.
9.
QL: Thưa quý thính giả, sau khi được hai vị soạn
giả giải thích việc thực hiện và soạn thảo từ điển của nhị vị, chúng tôi xin
được có một câu hỏi là xin nhị vị soạn giả giải thích lý do quý vị chọn tựa Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông cho quyển từ điển
này.
DS. Hiền:
Về hai chữ Từ Điển, chúng tôi đã vừa trình bày.
Về phần còn lại của cái tựa sách thì thưa chị và quý vị, cách tốt nhất là tôi
xin đọc nguyên văn phần giải thích, mà chúng tôi đã ghi trong mục Hướng dẫn
cách sử dụng cuốn từ điển:
· Tiếng Việt và Việt
ngữ có khác nhau không? Cả hai từ đều có nghĩa là nói, nhưng ‘ngữ’ là từ Hán Việt,
‘tiếng’ là từ nôm; ở đây, tên của cuốn từ điển này có đến sáu âm tiết, năm âm
tiết đã là từ Hán Việt thì âm tiết còn lại chúng tôi nghĩ cũng nên dùng từ Hán
Việt cho thuần nhất.
·
Vì sao gọi là phổ thông? Khi soạn cuốn từ điển này
chúng tôi chỉ dám có tham vọng sưu tầm các từ thông thường đã và đang được phổ
biến rộng trong mọi giới quần chúng, kể cả một số từ cơ bản (nhưng đã trở thành
phổ thông) trong các ngành chuyên khoa như triết học, luật học, y học, hay vi
tính, v.v..
10. QL: Thưa quý thính giả và quý
anh, thời gian dành cho chương trình Văn Hóa Việt sắp chấm dứt. Chúng tôi xin
mời nhị vị soạn giả quyển Từ Điển Việt
Ngữ Phổ Thông cho lời kết cho buổi hội thoại hôm nay.
a.
DS. Hiền:
Chúng tôi biên soạn cuốn Từ điển Việt Ngữ Phổ
Thông với mục đích chính là giúp cho người Việt có một cuốn từ điển để tra cứu các từ cũ có trong kho tàng sách báo Việt, cũng
như để hiểu về các từ mới phát sinh của tiếng nước nhà. Mặc dù trong mấy tháng
vừa qua được nhiều người khen ngợi về hình thức cũng như nội dung, nhưng chúng
tôi biết rằng cuốn từ điển này chưa hoàn hảo. Bởi vậy chúng tôi mong mỏi được
nghe thêm nhiều ý kiến đóng góp xây dựng của những người đã sử dụng cuốn từ
điển này. Và chúng tôi cũng xin quý vị quảng bá công trình biên soạn này đến
những người thân, vì càng có nhiều người biết tới thì chúng tôi càng thu lượm
được nhiều kinh nghiệm cho ấn bản sau.
b. BS. Thu:
Chúng tôi xin cám ơn quý vị đã lắng nghe chúng
tôi trình bày và cũng cám ơn chị Ngô Thị Quý Linh, một nhà biên khảo và giáo
dục vừa có tâm vừa có tầm, từng có nhiều sách được xuất bản, đã cho chúng tôi
cơ hội gặp gỡ quý thính giả của Đài Sài Gòn Houston, Texas, trong buổi hội luận
hôm nay.
QL: Thưa BS.
Thu và DS. Hiền, trước khi tạm biệt thính giả, xin nhị vị cho biết cách nào có
thể đặt mua được quyển Từ Điển Việt Ngữ
Phổ Thông?
BS Thu:
Thưa chị Quý Linh và quý thính giả,
Để đặt mua tại Hoa Kỳ, Canada và Việt Nam, xin
quý vị gởi điện thư cho cô Lê Vũ Hương-Quỳnh tại địa chỉ tudienvn2023@gmail.com, hoặc gọi điện thoại cho số +1-253-642-7340.
Ngoài ra, tại Tự Lực Bookstore và Cơ sở Người
Việt ở Nam California hiện cũng đã có bán sách từ điển này.
DS Hiền:
Để đặt mua tại Úc châu và các nước Âu châu, xin
quý vị liên lạc với tôi tại địa chỉ điện thư hien@ziggo.nl, hoặc số điện thoại +31-65389-5328.
QL:
Chúng tôi xin cảm ơn hai vị soạn giả BS.
Lê Văn Thu và DS. Nguyễn Hiền đã dành thì giờ quý báu trình bày về việc thực hiện
quyển Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông đến
quý thính giả của đài SGH. Mong quý thính giả sẽ ủng hộ và hỗ trợ cho công việc
thực hiện từ điển của hai vị soạn giả BS. Thu và DS. Hiền.
Chúng tôi xin cảm ơn quý thính giả đã
theo dõi chương trình hôm nay và xin hẹn gặp lại quý vị trong chương trình lần
tới.
PHÀM LỆ
Quý
vị đang cầm trên tay cuốn Từ Điển Việt Ngữ Phổ Thông, là một công trình tim óc
mà chúng tôi đã ôm ấp và ra sức biên soạn trên 12 năm. Chúng tôi, với kiến thức
hạn hẹp về ngôn ngữ và văn chương của những người làm công tác khoa học bên
ngành y và dược, mạo muội đi vào công tác biên soạn một cuốn từ điển giải nghĩa
tiếng nước nhà, quả là một sự liều lĩnh!
Liều
lĩnh nhưng vẫn phải làm vì bốn lý do chính:
1.
Muốn duy trì sự
trong sáng của tiếng Việt, giúp giải phóng nó khỏi bóng tối của thành kiến
chính trị và văn hoá.
2.
Định nghĩa lại nhiều
từ đã có từ trước nhưng chưa được giải thích chính xác và rõ ràng.
3.
Bổ sung một số từ
được phát sinh sau này, đặc biệt là một số từ thông dụng trong ngành vi tính và
tin học.
4.
Tạo cơ hội cho mọi
người:
-
từ học sinh, sinh
viên, là những người còn đang trong giai đoạn học tập và tiếp thu, cần trang bị
cho mình những từ và ngữ cụ thể, cần thiết và chính xác;
-
đến các bậc thức
giả, là những người có kiến thức uyên bác về nhiều lãnh vực, nhưng thỉnh thoảng
cần tra cứu một vài từ cổ hay ít dùng, hoặc chỉ phổ thông ở một địa phương nào
đó.
Khi
đọc các từ điển do các bậc tiền bối biên soạn, có cuốn được biên soạn từ thời đệ
Nhất hay đệ Nhị Cộng Hoà ở miền Nam Việt Nam, lúc ấy khoa học chưa phát triển
nhiều, khoa vi tính và tin học còn phôi thai, chúng tôi thấy các lời giải thích
- đặc biệt là về các ngành khoa học tự nhiên -
có nhiều thiếu sót và chưa chuẩn xác. Trong một số cuốn từ điển được soạn
từ lúc tiếng Việt còn ở giai đoạn phôi thai ở đầu thế kỷ thứ 19, chúng tôi thấy
có nhiều từ được viết khác với cách viết hiện giờ (lẫn lộn giữa d và gi,
chẳng hạn). Ngược lại, ở thời buổi hiện nay, nhiều tài liệu, dữ liệu, thông tin
được viết bằng ngoại ngữ hay bằng chính tiếng Việt bởi các chuyên gia uy tín của
các ngành được phổ biến rộng rãi trên các mạng truyền thông, việc truy cập của
người muốn tìm hiểu không còn khó khăn hay bị giới hạn như trước nữa, nên việc
biên soạn của chúng tôi có phần dễ dàng hơn, và chính xác hơn.
Cũng
có những cuốn từ điển gần đây được biên soạn bởi các soạn giả có trình độ rất
cao về ngôn ngữ, nhưng vì một lý do nào đó, quý vị bỏ sót rất nhiều từ tưởng là
cũ nhưng vẫn rất cần thiết cho sự giao tiếp hàng ngày của mọi người, hoặc để
các giới tra cứu mỗi khi gặp các từ ấy trong lúc đọc các sách xưa! Cũng có từ
điển được biên soạn bởi người có định kiến chính trị phe phái quá sâu đậm nên rất
nhiều từ đã được gán cho những nghĩa mà thật ra chúng không hề mang!
Ngôn
ngữ được phát triển liên tục, song hành với những chuyển biến về văn hóa và xã
hội. Có những từ cũ đã chết hẳn trong cuộc giao tiếp hằng ngày bây giờ, hoặc đã
được dùng với nghĩa khác hẳn giữa quá khứ và hiện tại. Thí dụ như từ “khoái lạc”,
trong văn chương dòng chính, nó có nghĩa là sảng khoái, sung sướng và vui vẻ,
nhưng trong một số sách truyện sau này, nó lại mang nghĩa rất dung tục, đó là
tình trạng sướng khoái lúc giao hợp! Có những từ mà người được sinh ra và lớn
lên tại miền Bắc xã hội chủ nghĩa dùng cách tự nhiên và thấy rất bình thường,
thì người sống ở miền Nam, được sinh ra hoặc được giáo dục dưới chế độ Cộng
Hoà, lại thấy lạ lẫm! Có những từ mà người trong nước hiện nay dùng cách thoải
mái thì người sống ở nước ngoài, đặc biệt là đồng bào tị nạn chính trị, lại thấy
kỳ quặc, không dung nạp được! Chúng tôi cố gắng ghi lại tất cả trong cuốn từ điển
này với các định nghĩa mà chúng tôi nghĩ là đúng đắn và khách quan nhất để mọi
người, dù thuộc khuynh hướng chính trị nào, hay sinh sống tại các vùng miền
khác nhau, đều có thể tra cứu và tìm hiểu cách thoải mái trong tinh thần vị văn
chương và học thuật.
TRI ÂN
Khi soạn cuốn từ điển này, chúng tôi đã được
các bậc thức giả trong học giới, các đàn anh trong ngành y dược có trình độ Hán
học khá cao và uyên bác về nhiều lãnh vực khác chỉ bảo, hướng dẫn, góp ý, chúng
tôi hết sức trân trọng và cám ơn. Trong số quý vị ấy, chúng tôi xin được trân
trọng cảm ơn quý đàn anh trong ngành Y: Bác sĩ Nguyễn Hy Vọng (Mỹ), Bác sĩ Nguyễn
Đương Tịnh (bút hiệu Trúc Cư - Pháp), Bác sĩ Trần Văn Tích (Đức), Bác sĩ Nguyễn
Văn Bảo (bút hiệu Con Cò), Bác sĩ Vũ Chấn, Bác sĩ Nguyễn Văn Tạ, Bác sĩ Nguyễn
Đức Liên, và Bác sĩ Trương Minh Cường (Mỹ). Chúng tôi cũng không quên cảm ơn một
đàn anh rất khả kính, thời còn sinh tiền, đã trao tặng cho chúng tôi một cuốn từ
điển Anh Việt rất cổ, với một câu khích lệ thật chí tình, đó là cố Bác sĩ Trần
Tấn Phát (California, Mỹ). Chúng tôi cũng không quên cảm ơn các bạn cùng lớp,
Bác sĩ kiêm Văn sĩ Nguyễn Mạnh Tiến (Úc) và Bác sĩ kiêm Văn-Thi sĩ Hầu Mặc Hưng
(Hoa Kỳ), đã cung cấp thêm cho chúng tôi một số từ rất đặc biệt, cũ và mới.
Riêng với Bác sĩ Nguyễn Đương Tịnh, Bác sĩ Vũ
Chấn, Bác sĩ Nguyễn Văn Tạ, và Bác sĩ Trương Minh Cường, chúng tôi rất hãnh diện
khi được quý anh chọn bản thảo cuốn từ điển này để dịch sang Pháp và Anh ngữ,
nhằm soạn một cuốn từ điển tam ngữ Việt-Pháp-Anh, với hoài bão giúp mọi người,
đặc biệt là các sinh viên học sinh Việt Nam, cũng như người ngoại quốc, có
phương tiện để tìm hiểu về ngôn ngữ Việt Nam.
Với đồng soạn giả, Dược sĩ Nguyễn Hiền, hiện định
cư tại tỉnh Utrecht, Hoà Lan, là người có nhiều tác phẩm biên soạn và biên dịch,
đã giúp chúng tôi phần hiệu đính cũng như biên soạn một số vần. Chúng tôi là
hai người bạn tâm đầu ý hợp, đã đồng quan điểm trên nhiều lãnh vực khi cùng
biên soạn cuốn từ điển này.
Chúng tôi muốn nhắc đến hiền thê, Vũ Thị
Hương-Mai, cũng là một người bạn thi văn, dù đau yếu, vẫn cố đánh máy tất cả
các đầu chữ từ vần A tới vần Y để giúp chúng tôi dễ dàng trong công tác biên soạn.
Và với các con của chúng tôi: Lê Vũ Hương-Quỳnh, Lê Vũ Thuý-Tiên, Lê Vũ Tường-An
(
Chúng tôi thành thật cảm ơn ông Đỗ Mỹ Văn, người
bạn rất thân và cũng là một chuyên gia về kỹ thuật vi tính, đã giúp trình bày
cuốn từ điển này theo đúng khuôn khổ mà nhà in yêu cầu.
Sau cùng, chúng tôi xin trân trọng cảm ơn quý
độc giả đang cầm trên tay cuốn từ điển
này. Hy vọng nó sẽ giúp ích quý vị phần nào trong việc tra cứu về văn hoá và từ
ngữ Việt. Chắc chắn cuốn từ điển này còn nhiều thiếu sót, kính mong quý vị góp
ý để lần ấn hành tới, nó sẽ trở thành hoàn hảo hơn. Mọi góp ý xin gởi về địa chỉ
điện thư thu2usa@gmail.com hoặc hien@ziggo.nl.
Trân trọng.
BS Lê Văn Thu
Hướng dẫn cách sử dụng
cuốn từ điển
I.
Mục đích biên soạn
Cuốn từ điển này được biên soạn nhằm mục đích
phổ biến các từ ngữ phổ thông Việt Nam mà tập thể người Việt ở trong nước cũng
như ở hải ngoại cần để sử dụng trong các giao tiếp thường ngày; vì thế nhóm
biên soạn cố gắng giản dị hoá cách định nghĩa cũng như cho các thí dụ dễ hiểu để
sao cho mọi người thuộc mọi tầng lớp có thể nắm bắt được ý nghĩa của từng từ một
cách dễ dàng.
Nó cũng nhằm giúp các nhà nghiên cứu về ngôn
ngữ Việt có cơ sở để tra cứu; vì thế nhóm biên soạn cố gắng giữ lại các từ cổ
(thịnh hành ngày xưa, nhưng ít dùng bây giờ) và thêm các phương ngữ mà chúng
tôi lượm lặt được (mặc dù không đầy đủ).
Ngoài ra, nhận thấy ngôn ngữ trải qua các thể
chế thường bị hiểu sai nghĩa gốc của nó tuỳ theo quan điểm chính trị; người ta
gán cho từ ngữ những tội mà nó không hề mang. Thí dụ: công an, cảnh sát và an
ninh là những ngành mà nước nào cũng phải có để giữ gìn an ninh trật tự trong
nước, bảo vệ sinh mạng người dân. Bản chất của ngành công an, cảnh sát hay an
ninh không độc ác và tham nhũng; sự độc ác hay tham nhũng, nếu có, là do tính
tình và đạo đức của người thi hành công vụ, hoặc do chế độ cố tình dung túng
cho các hành vi sai trái ấy. Vì thế, nhóm soạn thảo cố gắng sửa lại các định
nghĩa và cho các thí dụ sao cho chỉ nói lên cái nghĩa căn bản đúng đắn của từ.
Đất nước ta có hoàn cảnh chính trị và địa lý đặc
biệt, trải qua nhiều lần chia cắt đưa đến khác biệt vùng miền và quan điểm, nhất
là sau Hiệp định Genève. Hai chế độ ở hai miền có những xây dựng và phát triển
khác nhau, từ đó có những tổ chức, cơ quan hay chức vụ mang danh nghĩa khác
nhau; nhóm biên soạn cố gắng giải thích các từ sao cho mọi người, dù sống ở miền
nào, sinh trước hoặc sau năm 1975, đều hiểu được nghĩa đúng như ý người đặt ra
các tổ chức, cơ quan hay chức vụ ấy.
II. TẠI SAO GỌI LÀ TỪ ĐIỂN VIỆT NGỮ PHỔ THÔNG?
1.
Theo học giả Đào
Duy Anh, TỰ là chữ và TỪ là lời, trong LỜI (từ) đã có CHỮ (tự), tra cứu về lời
(từ) tức cũng tra cứu về chữ (tự); “vậy từ điển là gồm cả tự điển ở trong –
ĐDA”.
2.
Tiếng Việt và Việt
ngữ có khác nhau không? Cả hai từ đều có nghĩa là nói, nhưng ‘ngữ’ là từ Hán Việt,
‘tiếng’ là từ nôm; ở đây, tên của cuốn từ điển này có đến sáu âm tiết, năm âm
tiết đã là từ Hán Việt thì âm tiết còn lại chúng tôi nghĩ cũng nên dùng từ Hán
Việt cho thuần nhất.
3.
Vì sao gọi là phổ
thông? Khi soạn cuốn từ điển này chúng tôi chỉ dám có tham vọng sưu tầm các từ
thông thường đã và đang được phổ biến rộng trong mọi giới quần chúng, kể cả một
số từ cơ bản (nhưng đã trở thành phổ thông) trong các ngành chuyên khoa như triết
học, luật học, y học, hay vi tính, v.v..
III.
Các mục từ được xếp:
· Theo thứ tự chữ cái:
a ă â b c d đ e ê g h i k l m n o ô ơ p q r s t u ư v x y
· Theo thứ tự dấu giọng (được phổ biến trong các
sách giáo khoa thời Đệ Nhất Cộng Hoà):
không dấu, sắc,
huyền, hỏi, ngã và nặng.
· Trong các từ đa âm tiết, chữ được xếp theo thứ
tự của chữ cái:
bá xếp trước bác
chuồn xếp trước chuồng
chuồng xếp trước chuốt (vì n đi trước t).
· Về việc đặt dấu thanh trên nguyên âm, chúng
tôi theo quy tắc của ngữ âm học, được
tóm tắt như sau:
1.
Với các nguyên âm
đơn: Đặt dấu thanh điệu vào vị trí của nguyên âm (tá, ngò, hỉ, ngũ, tụng,
nghé).
2.
Với các âm tiết có
âm chính là nguyên âm đôi:
o Nếu nguyên âm được viết là iê,
iô, yê, oa, oă, uâ, uê, uy, uô, uơ, ươ thì bỏ dấu lên nguyên âm thứ hai (cước, miền, giỗ,
hoá, hoặc, tuần, Huế, tuệ, tuỷ, thuở, cường, cướp, yến, nuột, vượt, mướt).
o Nếu nguyên âm được viết là ai,
ay, eo, êu, oe, ôi, ơi, ưa thì bỏ dấu lên nguyên âm thứ nhất (mãi,
láy, méo, nếu, xòe, mỗi, đợi, khứa).
o Trường hợp các tổ hợp “ia”, “iu”
và “ua”:
* Với "ia" và “iu” thì phân biệt bằng sự có mặt
hay vắng mặt của chữ cái "g" ở đầu âm tiết. Có "g" thì đặt
vào "a" và “u” (giá, già, giả, giã, giạ, giúp, giùm),
không có "g" thì đặt vào "i" (bìa, tỉa, tía lía, cà
khịa, địa, dắt díu, dìu nhau, dịu ngọt). Trường hợp đặc biệt:
"gịa" (có trong từ "giặt gịa" và đọc là dzịa).
* Với "ua" thì phân biệt bằng sự có mặt hay
vắng mặt của chữ cái "q". Có "q" thì đặt vào "a"
(quà, quả, quạ, quán), không có "q" thì đặt vào
"u" (chúa, múa, chùa, lúa, lụa, tủa).
3.
Với các âm tiết có
âm chính là nguyên âm ba: Đặt dấu thanh điệu vào nguyên âm thứ hai (gian
giảo, hiểu, ngoéo tay, loại, tréo ngoảy, khuấy, khuỷu, lười, rượu, yếu),
ngoại trừ các nguyên âm ba “uyên” và “iươ”, dấu thanh điệu được
đặt vào nguyên âm thứ ba (quyến luyến, giường).
·
Về trường hợp các âm tiết có nguyên âm I
(thường gọi là i ngắn) hay Y (thường gọi là i dài) ở cuối (như trong từ qui
định hoặc quy định), chúng tôi vẫn không dám dứt khoát cách viết nào
là đúng hay chính xác. Từ trước đến nay, người mình dùng chúng theo thói quen
hoặc theo sự ưa chuộng cá nhân. Các bộ giáo dục và văn hoá, là cơ quan có thẩm
quyền về việc tiêu chuẩn hoá ngôn ngữ, qua các giai đoạn của lịch sử, cũng chưa
có các quyết định dứt khoát hay rõ ràng về vấn đề này. Trong trường hợp cả hai
cách viết được nhiều người dùng, chúng tôi ghi nhận cả hai, để giúp mọi người
có thể tra cứu dễ dàng.
IV.
CÁC CHỮ VIẾT
TẮT:
·
Loại từ:
bt biến
từ
dt danh
từ
đdt đại
danh từ
đt động
từ
gt giới
từ
kng khẩu
ngữ
kt kết
từ
lt liên
từ
mt mạo
từ
pn phương
ngữ, chữ địa phương
pt phụ
từ
st số
từ
thn thành ngữ
tht thán
từ
tt tính
từ
trt trạng
từ
·
Những chữ dùng để chú thích:
1.
Những chữ được viết thường:
bóng nghĩa
bóng
cd ca
dao
ck chữ
khác
cng cách
ngôn
dịch kinh
dịch
đd đồng
dao
động động
vật
đy đông
y
hình hình
học
hoá hoá
học
id ít
dùng
kd khuyết
danh
kng khẩu
ngữ
lóng tiếng
lóng
luật luật
pháp
nng ngạn
ngữ
Phật Phật
giáo
phong phong
tục, tục lệ
cg Công
Giáo
chúa Thiên
Chúa giáo
thể cơ
thể học
thực thực
vật
thtục thông
tục
tng tục
ngữ
tin tin
học
tín mê
tín
toán toán
học
tôn tôn
giáo
tục tiếng
tục
văn
văn
chương
vd vô
danh
vi vi
tính
y y
học
2.
Những chữ được viết hoa:
AVThu Anh
Việt Thu (nhạc sĩ)
BCD Bạch
Cư Dị (thi sĩ đời Đường)
BCKN Bích
Câu Kỳ Ngộ (truyện thơ)
BĐG Bạch
Đằng Giang (bài hát)
BHTQ Bà
Huyện Thanh Quan (thi sĩ)
BK Bích Khê Lê Quang Lương (thi sĩ)
BNT Bần Nữ Thán (ngâm khúc)
CBN Cao
Bá Nhạ (thi sĩ)
CHXHCNVN Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (tên nước)
CMT Chu
Mạnh Trinh (thi sĩ)
CONK Cung Oán Ngâm
Khúc
CPN Chinh Phụ Ngâm
CQ Cống
Quỳnh (danh sĩ thời Lê – Trịnh)
CTT Cung
Trầm Tưởng (thi sĩ)
DK Dương
Khuê (thi sĩ)
DQS Doãn
Quốc Sỹ (văn sĩ)
DTT Dương
Thiệu Tước (nhạc sĩ)
ĐC Đoàn
Chuẩn (nhạc sĩ)
ĐDA Đào
Duy Anh (học giả, nhà biên soạn từ điển)
ĐH Đinh
Hùng (thi sĩ)
ĐNQSDC (QSDC) Đại Nam Quốc sử Diễn ca (truyện thơ)
ĐT Đào
Tiềm (thi
sĩ, nhà tư tưởng thời Đông Tấn)
ĐTĐ Đoàn
Thị Điểm (thi sĩ)
ĐTT Đặng
Trần Thường (tướng của Vua Gia Long)
GHC Gia
Huấn Ca
HC Hoàng
Cầm (thi sĩ)
HCT Hán
Cao Tổ (vua Trung Hoa)
HL Hữu
Loan (thi sĩ)
HLân Hùng
Lân (nhạc sĩ)
HMT Hàn
Mạc Tử (thi sĩ)
HP Hà
Phương (ca sĩ)
HT Hà
Triều (nhà soạn kịch)
HTT Hoàng
Thi Thơ (nhạc sĩ)
HVP Hòn
Vọng Phu (nhạc phẩm)
K Kim
Vân Kiều truyện
KD Kim
Dung (văn sĩ Trung Hoa)
KT Kinh
Thánh Thiên Chúa Giáo
LDN Lý
Diên Niên (thi sĩ Trung Hoa)
LL Lữ
Liên (nhạc sĩ, ca sĩ)
LM Lam
Minh (nhạc sĩ)
LNH (NH) Lê Ngọc Hân (vợ vua Quang Trung, thi sĩ)
LQĐ Lê
Quý Đôn (nhà
bác học, nhà thơ thời Lê trung hưng)
LT Lê
Thương (nhạc sĩ)
LTT Lê
Thánh Tôn (vua, thi sĩ)
LVĐ
Lê
Văn Đức (nhà biên soạn từ điển)
LVT Lê
Văn Thu (tác giả từ điển)
LVTiên Lục
Vân Tiên (truyện thơ)
MK Minh
Kỳ (nhạc sĩ)
NB Nguyễn
Bính (thi sĩ)
NBH Nguyễn
Bá Học (nhà giáo, văn sĩ)
NBK Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (nhà tiên tri, nhà thơ)
NBiểu Nguyễn
Biểu (tướng nhà Trần)
NC Nhã
Ca (văn sĩ)
NCT Nguyễn
Công Trứ (thi sĩ)
NCX Nửa
Chừng Xuân (truyện)
ND Nguyễn
Du (thi sĩ)
NĐC Nguyễn
Đình Chiểu (thi sĩ)
NĐM Nhị
Độ Mai (truyện thơ)
NgH Nguyên Hồng (văn sĩ)
NGT Nguyễn
Gia Thiều (thi sĩ)
NgT, NTuan Nguyễn Tuân
(văn sĩ)
NK Nguyễn
Khuyến (thi sĩ)
NMG Nguyễn
Mộng Giác (văn sĩ)
NNP Nguyễn
Nhược Pháp (thi sĩ)
NT Nguyễn
Trãi (chính trị gia, thi sĩ)
NTH Nguyễn
Thái Học (liệt sĩ)
NTM Ngô
Thuỵ Miên (nhạc sĩ)
NVĐ Nguyễn
Văn Đông (nhạc sĩ)
NVV Nguyễn
Văn Vĩnh (văn sĩ, nhà báo)
PD Phạm
Duy (nhạc sĩ)
PK Phan
Khôi (văn sĩ)
PT Phan
Trần (truyện)
PTT Phạm
Thiên Thư (thi sĩ)
PVT Phan
Văn Trị (thi sĩ)
QATK Quan
Âm Thị Kính (truyện thơ)
QSDC (Đại
Nam) Quốc sử Diễn ca (truyện thơ)
SN Sơn Nam (văn
sĩ)
TC Tấm Cám
(truyện cổ tích)
TCN Trước Công
nguyên
TCS Trịnh Công Sơn
(nhạc sĩ)
TD Trần
Dần (thi sĩ)
TĐ Tự
Đức (vua, thi sĩ)
TĐà Tản
Đà (thi sĩ)
ThH Thôi
Hiệu (thi sĩ Trung Hoa)
TH Trịnh
Hưng (nhạc sĩ)
ThT Thanh
Tịnh (văn
sĩ)
TK Trương
Kế (thi sĩ Trung Hoa)
TKTCG Thánh
kinh Thiên Chúa giáo
TM Tú
Mỡ (thi sĩ)
TQ Trạng
Quỳnh (danh sĩ)
TQK Trần
Quang Khải (tướng đời Trần)
TrT Trinh
Thử (truyện
thơ)
TSLT Thạch
Sanh Lý Thông (truyện thơ)
TT Thâm
Tâm (thi sĩ)
TTT Tôn
Thọ Tường (thi sĩ)
TTX Trần
Tế Xương (thi sĩ)
VC Văn
Cao (nhạc sĩ)
VD vô
danh
VH Vương
Hàn (thi sĩ Trung Hoa)
VĐL Vũ
Đình Liên (thi sĩ)
VHC Vũ
Hoàng Chương (thi sĩ)
VHS Vương
Hồng Sển (nhà khảo cứu)
VNCH Việt
Nam Cộng Hoà (tên nước)
VNDCCH Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hoà (tên nước)
VP Văn
Phụng (nhạc sĩ)
VTP Vũ
Trọng Phụng (văn sĩ)
YV Y
Vân (nhạc sĩ)
ĐÔI DÒNG VỀ NHÓM BIÊN SOẠN
Bác
sĩ Lê Văn Thu:
Dược
sĩ Nguyễn Hiền:
No comments:
Post a Comment